watch sexy videos at nza-vids!

Game điện thoại hot nhất việt nam

Kho game cực đỉnh 2012
sitemap.xml
[Nhịp Sống Wap] Wap thân thiện với dịch vụ tuyệt vời cho mobile !
.
Để lướt web nhanh và không bị lỗi khi dowload Các bạn nên tải trình duyệt web di động
[Opera mini 7.0]
Chiến Thần - Game Cày Level Hàng Khủng

Chiến Thần - Game Cày Level Hàng Khủng

Game hạng nặng đồ họa khủng. Đánh quái, làm nhiêm vụ, cày level (Hỗ trợ Java/Android)

[Truyện trinh thám]Vụ Án Phòng Thí Nghiệm

  Kẻ cô đơn (Admin)
- 1 -

Nguyên tác “Antibodies”

Phóng tác từ "Hồ sơ X" -

Dịch từ bản tiếng Pháp, NXB 84, 1997


HẾ TÍCH CỦA PHÒNG THÍ NGHIỆM DYMAR
Chủ nhật, 23 giờ 13
Đêm lạnh ngắt và sương mù dăng lên khi chuông báo động vang rền. Hệ thống bảo vệ chỉ được thiết lập sơ sài chung quanh cái địa điểm bỏ hoang này. Vernon Ruckman là người gác duy nhất chịu trách nhiệm trông coi nó về đêm. Một công việc chán ngắt, nhưng anh được trả lương hậu và chỉ có mỗi một nhiệm vụ là ngăn chặn những kẻ đột nhập cơ sở của DyMar, nơi hãy còn những tàn tích nguy hiểm.
Dinh cơ DyMar được thiết lập trong vùng ngoại ô Portland, Oregon.
Vernon dừng xe trong lối đi dải sỏi. Anh ngắm nhìn phòng thí nghiệm, một trung tâm nghiên cứu chống ung thư mà 10 ngày trước đây còn nguyên vẹn. Anh kéo thắng tay, cởi dây lưng an toàn và mở cửa xe. Việc đầu tiên: kiểm soát các nơi để xem chuyện gì đã xảy ra.
Vernon lấy ra một chiếc đèn pin to bằng cái gậy bóng chày. Một vệt sáng chói chang rọi vào đêm tối. Anh đảo mắt quan sát tứ phía. Ngoài đèn pin, người ta còn cung cấp cho anh một huy hiệu, một bộ đồng phục, một khẩu súng lục cũ rích. “Được rồi, để xem con chuột nào dám giỡn mặt với mèo!” – Anh thầm nghĩ. Chỉ có làm ra vẻ hung dữ mới tống cổ được bọn nhóc ưa quậy tới đây để chơi trò ú tim.
Cách đây 10 ngày, những tên khủng bố bí mật đã ném bom cháy vào khu DyMar và biến nó thành một đống hoang tàn. Trong khoảng thời gian ấy, Vernon đã phải đối phó với một vài tên ăn trộm và các nhóc tì ấy. Anh tin rằng thể nào cũng thộp cổ được một đứa.
Tuy nhiên, khu này chẳng có gì hấp dẫn đối với bọn chúng. Những di tích của DyMar sẽ được san bằng trong vài ngày nữa. Những xe ủi, xe xúc đậu thành từng hàng để chuẩn bị nhập cuộc. Một nhà kho mới được dựng lên. Các kỹ sư đã dự trữ ở đó những khối chất nổ cần thiết cho sự phá hủy hoàn toàn.
Hình như một kẻ nào đó chỉ muốn mau chóng xóa hết tất cả dấu vết sự hiện hữu của trung tâm này. Thật lạ lùng! Nhưng Vernon chẳng muốn tìm hiểu cho mệt óc.
Trong khi chờ đợi, cái đống phế tích ấy là nơi lý tưởng để gây tai nạn. Cho nên Vernon không thích có chuyện gì xảy ra trong thời gian anh công tác. Anh rọi đèn vào khu nhà chính của DyMar. Khắp nơi ngổn ngang những cột kèo gẫy gục. Những bức tường nham nhở khói đen. Vernon tưởng tượng như có một con quái vật nấp trong bóng tối sẵn sàng nhảy bổ ra.
Sau hôm hỏa hoạn, người ta thiết lập một hàng rào sắt tạm bợ chung quanh khu DyMar. Cái khóa ở cổng vào đã bị mở. Vernon nín thở. Anh tưởng như nghe thấy những bước chân, những giọng nói. Lập tức anh thực hiện những điều mà người ta đã dạy anh trong khóa huấn luyện: một tay lăm lăm khẩu súng, một tay cầm đèn pin, và đôi mắt mở rộng. Cặp còng số 8 dắt ở thắt lưng, nhưng anh chưa bao giờ có dịp sử dụng bởi anh chưa bao giờ bắt giữ một ai. Như tất cả những người gác đêm, anh dành hầu hết thì giờ để đọc trong khi chờ đợi thời gian lặng lẽ trôi qua.
Cô bạn của Vernon sau khi tốt nghiệp khoa văn chương đã quyết định đi vào địa hạt thi ca. Vì vậy cô sống về đêm để tìm cảm hứng. Vernon đã ứng dụng lối sống của nàng cho mình. Những tuần lễ đầu, anh thường xuyên ngủ đứng. Thế rồi anh trở thành một con chim ăn đêm!
Vernon hoàn toàn tỉnh táo khi bước vào trong cái mê lộ của những hành lang của phòng thí nghiệm đã bị tàn phá. Anh cau mày. Nhìn cảnh tượng hôm nay, khó mà có thể hình dung được sự huy hoàng của trung tâm trước khi có vụ phá hoại: những bức tường bằng kính mờ, những đồ đạc toàn bằng gỗ quí.
Nhất định có một kẻ lạ mặt quanh quẩn đâu đây.
Tro than và những mảnh thủy tinh vỡ kêu lạo xạo dưới mỗi bước chân.
Đêm hôm khuya khoắt này, kẻ đột nhập phải là một “khách hàng” nghiêm túc hơn những tên nhóc trong vùng. Có thể đó là một thành viên trong nhóm chống thử nghiệm súc vật, kẻ đã ném những trái bom lửa. Nó trở lại để tìm kiếm các chiến tích! Cần phải thận trọng!
Vernon cúi mình chui qua một xà nhà gãy nằm ngả trên hành lang. Tầng dưới của tòa nhà hình như gần sụp. Tuy không phải là hạng nhát gan, nhưng Vernon cũng không thể ngăn được cảm giác tòa nhà sắp ập xuống đầu mình…
Một kẻ nào đó đang xê dịch. Lần này thì chắc chắn như vậy. Không phải vì những tiếng động của bước chân mà vì người khách bí mật đã ngang nhiên xô đẩy những mảnh vỡ.
Một cái bóng… cái bóng của một người lớn!
“Phải làm ra vẻ ta dũng cảm mới được”, Vernon tự nhủ.
- Giơ tay lên! Đây là một cơ sở tư nhân! Tôi bắt anh!
Vernon rọi đèn về phía người lạ mặt. Người này hình như không sợ hãi một chút nào – cái đó chứng tỏ rằng hắn ta là một tên nguy hiểm. Hắn ăn mặc bê bối, quần áo đầy bồ hóng và bụi bặm. Vernon kết luận ngay rằng hắn là một kẻ vô gia cư, tới đây để chôm chỉa.
- Anh làm gì ở đây? Anh sẽ chẳng tìm thấy cái gì đáng giá đâu.
- Anh nhầm rồi, anh bạn ơi!
Người đó nói với một giọng kẻ cả. Vernon bắt đầu hốt hoảng. Anh lặp lại một cách ngớ ngẩn:
- Đây là một cơ sở tư nhân! Cần phải có giấy phép mới được vào.
- Tôi biết, và tôi có giấy phép. Tôi làm việc… ở đây, cho phòng thí nghiệm DyMar.
Đó là điều Vernon chờ đợi. Dù sao mặc lòng, anh vẫn tiếp tục theo dõi từng cử chỉ của hắn.
- Tôi là Dorman, bác sĩ Jeremy Dorman.
Nói xong, ông ta cho tay vào túi. Lập tức Vernon cũng đặt tay lên khẩu súng.
- Không, đừng sợ! Ông ta kêu lên. Tôi chỉ tìm giấy phép của tôi mà thôi.
Vernon lại gần và rọi đèn vào mặt ông ta.
Người đàn ông ấy đẫm mồ hôi. Ông ta có vẻ như đang ốm nặng.
- Trông ông không được khỏe. Ông cần phải đi khám bệnh.
- Chuyện đó không cần thiết. Cái mà tôi cần nằm ở trong này. Coi đây.
Vernon thấy ông ta thu dọn những đống gạch vụn phủ trên cái két sắt chống hỏa hoạn. Ông ta rút trong túi ra một cái thẻ ghi hàng chữ DyMar Labs.
- Ông thấy đó. Tôi làm việc ở đây.
- Xin ông cảm phiền, nhưng thẻ ấy không cho phép ông vào đây. Tôi phải báo cáo lên cấp trên…
- Không! Người lạ mặt kêu lên. Ông làm tôi mất một khoảng thời gian quí báu. Hãy để cho tôi làm!
Vernon lùi lại, mặt Dorman co rúm. Anh chưa bao giờ nhìn thấy một bộ mặt ghê rợn đến như vậy.
Dorman không chú ý tới sự ngạc nhiên của Vernon, và tiếp tục giải tỏa cái két sắt. Vernon cho rằng mình nhịn như thế là đủ rồi. Anh rút súng ra:
- Bác sĩ Dorman, xin cảm phiền, nhưng ông phải theo lệnh tôi. Giơ tay lên, úp mặt vào tường, lẹ lên!
Thốt nhiên Vernon nhận thấy chiếc sơ mi của nhà bác học giật nẩy lên như mặt ông ta, như thể có những con chuột chạy ở dưới lớp áo.
Ông ta ngoan ngoãn úp mặt vào tường.
- Tôi đã nói với ông rồi, tôi là một nhân viên của DyMar. Ông đã làm mất thì giờ của tôi.
- Tôi cũng đâu có muốn mất thì giờ của tôi.
Khách lạ giơ tay lên. Vernon nhận thấy làn da của ông ta có màu vàng sáp. Có lẽ ông ta là nạn nhân của một tai nạn công nghiệp. Vernon không biết một tí gì về khoa học, và mặc dù có súng, anh cũng bắt đầu thấy sợ!
Áo sơ mi của Dorman tiếp tục gợn sóng. Người ta tưởng như có một con mèo hoang ẩn núp dưới cái áo vét!
- Ông có cái gì ở dưới áo vậy? Hãy đứng im để tôi lục soát!
Dorman lặng lẽ nhìn bức tường nham nhở bồ hóng ở trước mặt.
- Nếu tôi là ông, tôi sẽ không làm thế! Ông ta giận dữ nói.
- Đừng hăm dọa tôi vô ích, tôi không ngán ông đâu.
- Đừng động vào tôi!
Vernon đặt đèn pin lên một cái xà gẫy và bắt đầu lục soát. Da của lão đốc tờ nóng một cách kỳ lạ. Khắp nơi đều có những cái bướu. Bất chợt những ngón tay của anh đụng vào một chất nhầy. Anh vội vàng rút tay ra.
- Ông giở cái trò gì bẩn thỉu vậy?
- Tôi đã báo trước với ông rồi, nhưng ông không nghe lời tôi…
Vernon cho súng vào bao và bắt đầu xoa tay lia lịa vào quần.
- Nhưng thế là nghĩa lý gì? Anh hỏi trống không.
Đột nhiên, da anh bắt đầu nóng như bốc lửa, giống hệt như khi bị đổ acide lên.
- Aaaa!
Bây giờ thì Vernon hoàn toàn khiếp đảm, chập choạng lùi lại vì đau đớn. Anh cảm thấy như có những ngọn lửa nhỏ tí xíu đi ngược lên dọc theo cổ tay và trong cánh tay, trong ngực và trong đầu.
Dorman quay lại nhìn Vernon.
- Tôi đã báo trước với anh rồi, có đúng thế không?
Vernon có cảm giác như đầu óc mình sắp nổ tung. Anh không còn trông thấy gì nữa. Tay anh run rẩy và chân nhũn ra. Rồi anh nghe thấy xương gẫy răng rắc. Xương của anh…
Kêu thét lên vì sợ hãi, Vernon ngã vật ra đất, trong những đống tro. Cơ thể anh trở thành một bãi mìn nổ từng cái một.
Dorman quan sát người gác đêm quằn quại trên mặt đất trong giây lát, rồi lại quay về phía cái két sắt. Chẳng cần nhìn anh chàng ngốc nghếch ấy, ông ta cũng biết rằng da anh ta đã co lại, và những mảnh thịt đỏ hiện ra, ở đó các mô đã bị phá hủy. Những mụn mủ, những khối u và những cái bướu cũng xuất hiện trên xác Vernon.
Dorman lau chùi cửa két sắt, quay theo mã số rồi mở ra. Nhưng cái két trống rỗng. Bọn chúng đã ra tay trước.
- Không!
Dorman thốt lên một tiếng kêu cuồng nộ. Những hồ sơ của David, những băng video, những bộ phận mẫu, tất cả những yếu tố có thể cho phép ông ta khám phá ra giải pháp đã biến mất.
Bị ăn cắp, bị tịch thu hoặc bị phá hủy?
Dorman giận muốn phát điên. Làm gì bây giờ đây. Ông ta nhìn bàn tay của mình. Kết cấu của da đã thay đổi như thể bị một dòng điện chạy qua. Ông ta rùng mình và cố sức hô hấp từ từ, nhưng những run rẩy đã biến thành co quắp.
Nhờ một cố gắng phi thường, ông ta đã lấy lại được sự kiểm soát của cơ thể mình. Chuyện đó mỗi ngày càng trở nên khó khăn. Nếu cứ nay lần mai lữa thì sẽ quá muộn.
Tuyệt vọng Dorman chập choạng đi vào những hành lang của phòng thí nghiệm. Tất cả máy vi tính đều bị phá hủy. Chẳng còn tài liệu lưu trữ nào nữa. Sau cùng ông ta tìm thấy văn phòng của David Kennessy, cố giám đốc trung tâm DyMar.
- Tên David khốn kiếp! Ông ta rủa thầm.
Cơn giận đã đem lại sức mạnh cho ông ta. Những ngăn kéo bị cháy dở dang đều bị ông ta mở tung ra. Một trong những cái ngăn ấy chứa đựng một tấm hình cũ. Khung kính đã bị vỡ dưới sức nóng của cuộc hỏa hoạn.
Dorman lấy tấm hình ra và nhìn nó đăm đăm.
Môt phụ nữ trẻ đẹp, tóc vàng, tươi cười rạng rỡ và con trai bà ta, một cậu bé xinh xắn. Dorman biết tấm hình ấy đã được thực hiện khi đứa bé chưa đầy 7 tuổi, ở vào thời điểm khi nó chưa mắc bệnh bạch cầu. Patricia và Jody Kennessy.
Dorman suy nghĩ, mân mê tấm hình trong tay. Phải, có lẽ đó là may mắn duy nhất của ông ta…
Dorman trở lại với thi hài của người gác đêm, và không thèm ngó ngàng gì tới những mụn mủ khủng khiếp đầy cơ thể hắn, cúi xuống nhặt khẩu súng. “Có vũ khí trong tay cũng có lợi lắm chứ?" Ông ta thầm nghĩ.
Nhưng trước hết là cần phải tìm thấy họ, họ và con chó của họ. Patricia Kennessy trốn tránh ở đâu?
Ông khách kỳ lạ rời khỏi khu DyMar để lại phía sau mình cái xác chết nhớp nhúa của Vernon. Không có thì giờ dành cho tình cảm. Cần phải tìm ra những người sống sót của gia đình Kennessy.
Họ là nguồn hy vọng độc nhất của ông ta.
TỔNG HÀNH DINH FBI – CAO ỐC EDGAR J. HOOVER WASHINGTON D.C
Thứ hai, 7 giờ 30
Con gấu to đùng. Chí ít nó cũng cao hơn 3 mét. Nó có bộ lông màu nâu tuyệt đẹp, cơ bắp nổi bật, móng vuốt sắc bén. Nó chỉ cần tát một cái là toi mạng!
Mulder ngắm nghía hàm răng của con vật và vóc dáng bề thế của nó. Từ thân hình nó tỏa ra một sức mạnh khủng khiếp! May mắn cho anh đó là một con thú nhồi rơm. Nhưng, dù biết vậy, anh vẫn cảm thấy tim mình đập rộn ràng. Nó được trưng bày trong đại sảnh của cao ốc Hoover, Tổng hành dinh của F.B.I.
Sự trang trí ấy đã có một chút lịch sử: một tay tổ buôn ma túy, say mê săn bắn, đã chi một khoản tiền lớn để đi săn gấu ở Alaska. Khi hắn bị thộp cổ về tội buôn lậu “hàng trắng”, người ta đã tịch thu tất cả tài sản của hắn, trong đó có con gấu ấy. Chẳng biết làm gì cới cái chiến lợi phẩm cồng kềnh này, các nhân viên F.B.I bèn đặt nó ở văn phòng, giữa một chiếc Harley và những đồ nữ trang thu hồi từ bọn trộm cắp.
Thỉnh thoảng, Mulder, từ bàn giấy của mình ở tầng hầm, ngoi lên mặt đất tới đây chỉ để ngắm nghía con gấu. Trong lúc chiêm ngưỡng nó, anh chợt nhớ tới bản báo cáo kỳ lạ vừa nhận được, theo viên cảnh sát tư pháp của Portland, một người gác đêm chết bất đắc kỳ tử bởi một bệnh dịch bí hiểm. Da anh ta bị gặm nhấm từng mảng, và cơ thể anh đầy những mụn mủ và khối ung thư. Tuy nhiên, các nhân chứng gặp anh vài giờ trước đó thì thấy anh hoàn toàn khỏe mạnh.
Khi một con gấu ở Bắc cực giết một con mồi, thi thể nạn nhân mang những dấu vết đặc trưng. Nguyên nhân của cái chết quá rõ rệt. Nhưng đằng này người gác dan lại được tìm thấy tại trung tâm DyMar đã bị phá hủy bởi hỏa hoạn.
Một chứng bệnh mới và khủng khiếp, đó là một trường hợp đặc biệt kỳ lạ.
Một vấn đề đối với nhân viên đặc biệt Fox Mulder.
Anh nhìn con gấu lần cuối, trở lại phía thang máy để đi xuống văn phòng của mình. Anh sẽ đọc lại bản báo cáo ấy trước khi tìm gặp nữ đồng nghiệp Scully của mình.
Khẩu súng Sig Sauer 9mm, hộp đạn đặc biệt chứa được 15 viên, chế tạo tại Thụy Sĩ. Ở trong tay một xạ thủ điêu luyện, nó trở thành một thứ vũ khí vô cùng lợi hại. Dựa vào cái vách bằng thủy tinh hữu cơ chống tiếng ồn của phòng tác xạ của F.B.I, nhân viên đặc biệt Dana Scully lên đạn. Cô gõ vào bàn phím máy vi tính để ở bên cạnh và ra một loạt mệnh lệnh. Ngay lập tức, cái bóng dáng cách điệu hóa “kẻ hung dữ” mà cô nhắm bắn lùi ra xa.
Đội mũ an toàn, đeo kính bao vệ, Scully nắm chặt báng súng. Cô ngắm từ từ, rồi bóp cò, trút tất cả đạn vào cái bia bằng các tông, nó bị vỡ tung thành từng mảnh. Mùi thuốc súng làm cay sống mũi.
Scully nghĩ tới những gã đàn ông hèn nhát đã ám sát Melissa, em gái cô; những sát thủ ấy cũng đã nhiều lần giết hụt cô. Chúng sẵn sàng tìm đủ mọi cách để hạ bệ uy tín của Mulder. Cô cần phải bình tĩnh, không để cho giận dữ và mong muốn trả thù chi phối.
Hiện nay Scully đang bị chứng ung thư hành ha, không thể giải phẫu được và cũng không thể chữa trị được. Cô nghiến răng ném cái nạp đạn rỗng xuống đất để thay cái khác. Những vỏ đạn bật ra từng cái một theo khoảng cách đều nhau, rơi vào cái thùng ở dưới chân.
Scully lại tiếp tục bắn. Cách cô 25m, hình bóng “kẻ hung dữ” hiện ra trước mắt. Cô nã bốn viên vào trong cái vòng tròn đen biểu hiện cho trái tim. Còn ba viên trong nạp đạn. Cô nhìn thấy ba điểm chạm đích ghi trên trán của hình vẽ. Không một ai có thể sống sót dưới một cơn mưa đạn như thế.
Scully tháo mũ ra và bấm vào một cái nút để cho tấm bia trở lại phía mình. Mỗi tam cá nguyệt, tất cả nhân viên F.B.I đều phái trải qua một cuộc thử nghiệm tác xạ.
Các nhóm du khách được hướng dẫn viếng thăm cao ốc Hoover sắp dự khán một cuộc biểu diễn các loại súng: Sig Sauer, Beretta 92, M-16, và cả Thompson Sub. Bằng mọi giá, Scully phải đi ra khỏi đây trước khi họ tới. Cô hãnh diện ngắm nhìn kết quả của sự rèn luyện của mình hiện trên tấm bia. Với số điểm này , cô dư sức để tranh tài với các đồng nghiệp.
Ở Quantico, nơi người ta đào tạo những thành viên của F.B.I, các huấn luyện viên dạy cho các sinh viên của họ không được nghĩ tới cụm từ “kẻ bị bắn hạ” mà phải sử dụng từ ngữ “bia”, và phải nói “nhắm vào trung tâm” thay vì “nhắm vào trái tim”.
Người ta không giết một tên tội phạm, người ta chỉ bắn vào cái bia. Âu cũng là một cách diễn đạt.
Scully tháo tấm bia ra, ghi chú vào đó và ký tên. Rồi cô ra lệnh cho máy tính ném những tấm bia di động lên trời với tốc độ thật nhanh.
Bất chợt cô cảm thấy có người nhìn mình.
Quay lại, cô thấy Mulder. Dựa lưng vào cánh cửa để quan sát cô. “Anh ấy đứng ở đó bao lâu rồi?”, cô tự hỏi.
- Scully bắn giỏi lắm – Mulder. Nhận xét với nụ cười thân mật.
- Bộ anh dò xét tôi sao
Rồi anh tiếp lời:
- Chúng ta có một vụ làm ăn mới. Một trường hợp sẽ khêu gợi trí tò mò của em.
Scully móc cái kính bảo vệ vào cái giá, rồi báo cho máy tính: “Cuộc thực tập kết thúc, ghi kết quả”, và nhét súng vào bao, để rồi sau này xem sau cũng không muộn.
Scully đi theo người bạn đồng nghiệp. Ở Mulder, cô luôn tìm thấy những điều lý thú có lợi cho nghiệp vụ.
QUÁN CÀ PHÊ KHE SANH
Rời khỏi cao ốc Edgar J. Hoover, Mulder báo cho Scully biết sẽ tới một quán cà phê để bàn bạc về một công việc mà anh muốn đảm trách.
Tổng hành dinh của F.B.I không phải là nơi ra vào dễ dàng. Hai người xuất trình huy hiệu cho nhân viên bảo vệ túc trực ở phía cửa có máy ra kim loại.
Các du khách đã nối đuôi nhau chờ đợi vào tham quan. Scully cảm thấy các em thiếu nhi chăm chú nhìn mình. Có thể vì cô chưa kịp thay bộ đồng phục sau khi rời trường bắn. Cô vội vàng kéo tay Mulder rảo bước.
Mulder đẩy cánh cửa của Khe Sanh Coffee Shop, lịch sự nghiêng mình để cô bạn đồng nghiệp đi trước.
- Tại sao anh lại chọn nơi này? Scully hỏi.
- Bởi anh thích – Mulder khẽ nhún vai. Họ pha cà phê trong những cái ly nhựa và luôn có bã ở đáy. Người ta có cảm tưởng như ở nhà.
Scully thở ra. Cô biết Mulder thích trêu mình nên ghé vào cái quán tồi tệ nhất của thành phố.
Mulder đặt cái “attaché-case” (một kiểu va li nhỏ và dẹt) lên trên bàn.
- Em ăn gì để anh gọi?
Nhìn những món ăn bày trên quầy, Scully bĩu môi.
- Không, một ly cà phê là đủ.
- Đáng tiệc, thực đơn hôm nay có vẻ ngon và…
Cô ngắt lời:
- Một ly cà phê, có vậy thôi. Em không đói.
Scully theo học y khoa. Nàng biết rõ căn bệnh của nàng: không thể chữa khỏi được. Nhưng nàng không muốn bệnh tật làm trở ngại công việc của mình.
Mulder trở lại với hai cái ly nhựa đựng một chất lỏng gọi là cà phê. Chỉ ngửi cái mùi của nó, nàng đã thấy khó chịu.
Mulder lấy từ va li ra một tập hồ sơ và nói với giọng nghiêm túc:
- Em sẽ thích vụ này. Xảy ra tại Portland, Oregon. Chính xác hơn: phòng thí nghiệm DyMar, một trung tâm nghiên cứu chống ung thư do nhà nước tài trợ.
Anh nhìn vào mắt Scully để xem phản ứng của cô về hai tiếng “ung thư”, rồi trao cho cô tập sách mỏng bìa in hình một tòa nhà hết sức hiện đại. Bên trong tập tài liệu còn có những hình ảnh khác; những hành lang và những căn phòng được trang trí bằng gỗ quí và chậu kiểng.
- DyMar, Scully lặp lại, chưa bao giờ nghe.
- Người ta luôn giữ bí mật cho đến gần đây.
Cô trả lại cho Mulder tập sách.
- Chuyện gì đã xay ra?
Mulder chỉ cho cô xem một tấm hình màu đen và trắng. Cũng vẫn là tòa nhà ấy, nhưng đã bị thiêu hủy, bị phá hoại, có những hàng rào an toàn vây chung quanh.
- Không khác gì bị bỏ bom?
- Trông bề ngoài thì như thế, nhưng đây là một trường hợp phá hoại cố ý. Cuộc điều tra chưa kết thúc. Tai họa chỉ mới diễn ra có 10 ngày. Một nhật báo ở Portland nhận được một lá thư yêu sách, ký tên “Nhóm giải phóng tức khắc”. Trước đó chưa bao giờ nghe nói về họ. Họ tự nhận là bạn của súc vật nên đã nổi dậy chống lại những cuộc thử nghiệm của giám đốc trung tâm, bác sĩ David Kennessy.
- Và họ đã thiêu hủy tất car
- Không, thoạt đầu họ sử dụng, sau đó mới hỏa thiêu!
- Cách ứng xử ấy không bình thường. Không đời nào những người khủng bố của nhóm bảo vệ sinh thái lại sử dụng bạo lực như vậy. Hành động của họ giới hạn trong việc giải phóng những con vật và cốt để cho giới truyền thông nói về họ.
Cô nhìn lại hình và hỏi:
- Ông Kennessy đã làm gì? Tại sao cái đám người xách động ấy lại muốn hãm hại ông ta?
Mulder tỏ ra bối rối trước câu hỏi ấy.
- Chưa có gì là chắc chắn. Hình như ông ta nghiên cứu những kỹ thuật cho phép khôi phục lại những tế bào bị hư hại bởi bệnh tật. Tôi đã đọc những báo cáo đầu tiên của ông ta. Trong giai đoạn đầu của cuộc nghiên cứu, ông ta xưng tụng việc sử dụng vi kỹ thuật. Nhưng những tài liệu mới nhất đã biến đi một cách bí mật. Theo tôi biết, ông ta muốn dùng kỹ thuật ấy để chống ung thư.
Scully cau mày.
- Vì kỹ thuật chỉ là một ý nghĩa mông lung, một giả tưởng. Nó dùng để chế tạo những bộ máy nhỏ xíu. Chúng được đưa vào cơ thể con người để hoàn thành một công việc nhất đinh. Một chuyện thần tiên… Nhưng than ôi, theo các chuyên viên, không phải ngày một ngày hai cái lý thuyết cao siêu ấy trở thành hiện thực.
Mulder nhấp một ngụm cà phê:
- Người ta bảo rằng một số người không chấp nhận công trình của Kennessy. Đã có những cuộc biểu tình. Người ta cũng nghe nói đến những nhóm phản đối công việc thử nghiệm của ông ta trên một vài con vật của phòng thí nghiệm.
Mulder tiếp lời sau một cái bĩu môi:
- Cuối cùng, tất cả hồ sơ hình như đã bị thiêu hủy bởi hỏa hoạn.
- Đã có những nạn nhân trong vụ này?
- Có, Kennessy và viên phụ tá của ông ta, Jeremy Dorman, đã thiệt mạng trong vụ nổ.
Scully giở một số trang trong tập sách, ở đó người ta nói về những “khám phá tuyệt vời trong lĩnh vực chống ung thư”, “hy vọng mới cho tất cả những chứng bệnh” và “cuộc cách mạng y khoa”… vẫn chỉ là những từ ngữ mà các nhà ung thư học sử dụng từ năm 1950.
Mulder đưa cho cô xem tấm hình một cậu bé khoảng 8 tuổi, mặt tái xanh và hầu như bị hói.
- Kennessy có những lý do riêng. Cậu bé ấy là Jody, con trai ông ta. Nó bị bệnh bạch cầu, ở giai đoạn chót. Người đàn ông khốn khổ ấy đâu có thể để cho một vài lá thư nặc danh hoặc một vài cuộc biểu tình phá hoại những cuộc nghiên cứu mà ông ta hy vọng là sẽ cứu được con mình.
Scully đứng dậy:
- Ok, trung tâm ấy được chính phủ tài trợ. Vậy anh có dự tính cáng đáng cuộc điều tra không, bởi lẽ đây là một vụ phá hoại tài sản quốc gia.
Mulder nghiêng mình về phía cô.
- Nội vụ còn rắc rối hơn chứ không phải thoạt nhìn như bề ngoài đâu.
Cô mỉm cười biểu lộ sự nhất trí.
- Em sẽ ngạc nhiên nếu chỉ vì một hành động khủng bố mà lại khiến anh quan tâm.
- Coi đây nè.
- Gì vây?
Mulder dưa cho cô xấp hình mới. Một người đàn ông mặc đồng phục của nhân viên bảo vệ. Thân hình anh ta co quắp như một con nhện chết. Da nổi lên những cái bướu, những cái u khủng khiếp. Thịt anh ta bị xé rách.
- Đêm vừa rồi – Mulder giải thích – người ta thấy xác nạn nhân trong đống phế tích. Hắn như có vẻ mắc một chứng bệnh cực kỳ ghê gớm, một loại dịch. Chẳng ai biết là bệnh gì.
Scully xem xét tấm hình kỹ hơn.
- Cái gì có thể gây ra những tang thương như vây? Em chưa bao giờ nhìn thấy những cái đó.
- Có thể là do những thí nghiệm của Kennessy.
Không ai rõ bọn khủng bố đã giở những trò gì trước khi ra tay phá hoại. Có thể chúng đã giải thoát những con vật mang mầm bệnh lây nhiễm cực nhanh. Cũng có thể chúng đã phóng thích vào thiên nhiên một thứ bệnh dịch, một loại ung thư kinh khủng.
Mulder cất hồ sơ vào va li. Scully không che giấu sự hoài nghi của mình.
- Nhưng anh đừng nên quên rằng bệnh ung thư không lây, nó không lây truyền như bệnh cúm.
- Biết chứ, nhưng em đã nhìn thấy xác của người đàn ông ấy chưa? Những người gặp anh ta vài giờ trước khi anh ta chết, bảo rằng anh ta hoàn toàn khỏe mạnh. Anh không thể ngăn cản được ý chí cho rằng, trong lúc đi tuần tiễu, anh ta đã đụng độ với một cái gì còn lại sau hỏa hoạn.
Scully thay đổi thái độ.
- Nếu anh có lý, và nếu những triệu chứng ấy biểu hiện cho một chứng bệnh mới, thì…
Mulder ngắt lời cô:
- Cảnh sát tư pháp đã đặt cái xác đó trong sự cách ly kiểm dịch và Trung tâm dịch tễ quốc gia đã được cảnh báo. Nhưng anh cố thu xếp để em có thể tận mắt nhìn thấy. Một vài chi tiết nhỏ sẽ có thể giúp ích cho chúng ta. Em nghĩ sao?
- OK!
Nàng cho rằng Mulder đã không cường điệu: một trong những con vật bị lây nhiễm có thể thoát ra khỏi vụ hỏa hoạn. Có trời biết nó mang theo bệnh gì. Chắc chắn nó phải là một cái gì đó cực kỳ rùng rợn!
QUỐC LỘ 22 – OREGON
Thứ hai, 22 giờ
Con chó băng qua lộ về phía rừng. Nó dừng lại ngay giữa đường. Một tiếng động khiến nó chú ý. Nhưng không một bóng người. Chỉ có mấy cái hộp thư ở mé đầu con đường đất chứng tỏ sự có mặt của cư dân.
Hai luồng ánh sáng tròn xuất hiện trên đường, lao thẳng về phía con chó. Âm thanh của động cơ rền vang trong đêm. Chiếc xe ngày càng lại gần với tốc độ nhanh hơn.
Con đường tối đen và lấp lánh dưới cơn mưa. Lộ trình thì dài và những đứa trẻ không còn chịu ngồi yên một chỗ trong xe nữa. Họ đã vượt hơn 600 km một nửa lộ trình trên con đường không được phẳng phiu ấy. Sau đó, họ sẽ tiến vào xa lộ trước khi tới bờ biển.
Richard lái xe, mắt nhìn thẳng.
- Lẽ ra chúng ta phải chuẩn bị kỹ càng hơn trong chuyến đi này! Vợ Richard lầu bầu.
- Biết rồi, khổ lắm! Chuyện đó ít ra anh đã nghe em nói 20 lần rồi!
Phía sau họ, chú bé Rosy chơi với cái máy bấm điện tử trong khi Megan, em gái nó ngồi một mình phụng phịu.
- Bố ơi, con buồn lắm. Có thể chơi trò chơi gì chứ?
- Trò chơi ư, con nai vàng của bố. Ừ, hay là ta chơi trò đếm những tháp xilo chứa lúa mì. Ai đếm được nhiều nhất là thắng cuộc.
- Ở đây làm gì có tháp xilo, vả lại trời tối mù? Rosy kêu lên.
Richard tuy bực bội, nhưng vẫn nhẫn nại nói với con:
- Thôi được, chúng ta sẽ bắt đầu bằng…
Bà vợ vội ngắt lời chồng:
- Richard, coi chừng, một con chó! Bà hét lên.
Ông vừa kịp nhìn thấy cái bóng của một con vật trên đường ngay trước mặt mình. Ông bẻ tay lái. Một sự va chạm mạnh ở cái cản.
Chiếc xe dừng lại. Hai đứa trẻ ngồi sát vào nhau khóc rấm rứt. Richard bực dọc, loay hoay tháo dây lưng an toàn, rồi mở cửa xe bước xuống.
Đi một vòng, ông nhận thấy chắn bùn ở mé phải hơi bị móp.
- Con chó đâu rồi? Nó có sao không? Megan kêu lên.
Khi phát hiện con vật, tim Richard se lại. Đó là một con Labrador đen tuyền. Máu từ sọ nó chảy ra, nhưng nó vẫn cử động và cố gắng lết về phía bìa rừng.
Thà rằng nó chết ngay còn hơn. Khổ thân con vật!
- Phải đưa nó đi bác sĩ!
Richard quay lại. Rosy đã xuống xe. Đứa bé chăm chăm nhìn con chó.
- Bố nghĩ ngay rằng cả bác sĩ giỏi nhất thế giới cũng chẳng thể làm gì cho nó được.
- Không thể bỏ rơi nó, bố ạ! Từ trong xe, Megan kêu lên.
- Có một cái mền ở trong thùng xe đấy… bà vợ nhắc.
- Cần phải đưa nó tới bác sĩ thú ý, Rosy khẩn nài.
Richard thở dài. Không có sự lựa chọn nào khác. Vợ ông đã lấy ra từ trong thùng xe các vật dụng, các con ông chờ đợi nơi ông một cử chỉ đẹp.
Họ tới Lincoln, một thị trấn nhỏ. Không có một tiệm buôn nào mở cửa. Cũng chẳng có một chút ánh sáng nào, ngoại trừ đèn đường.
Richard vừa lái xe vừa ngó nghiêng để tìm phòng mạch trực của bác sĩ thú ý. Vòng vo một hồi, ông cũng tìm ra. Ông bấm chuông. Một ông già ra mở cửa.
- Chào bác sĩ. Xe của chúng tôi đã đụng phải một con chó.
- Để tôi xem có thể làm gì được cho nó.
Viên thú ý không tỏ vẻ ngạc nhiên chút nào. Ông đã quá quen với những loại tai nạn ấy.
- Con vật có vẻ bị thương nặng, Richard nói.
Họ đi ra mở thùng xe.
Con Labrador vẫn còn sống. Hình như nó đang hồi sức. Sự hô hấp của nó sâu hơn, đều hơn.
Viên thú y nhìn con vật, rồi nhìn hai đứa bé trong xe; chúng đang quan sát xem sự thể diễn tiến ra sao. Nhìn ánh mắt của ông ta, Richard hiểu rằng con vật sẽ không thoát khỏi cái chết.
- Không phải con chó của ông?
- Không, thưa bác sĩ, và nó cũng chẳng có cổ-dề nữa.
- Hãy giúp tôi đưa nó vào phòng mổ.
Megan sốt ruột kêu lên:
- Nó sẽ khỏi chứ?
- Sẽ khỏi thôi cưng ạ – ông già thở dài nói. Tôi có những thứ thuốc rất hiệu nghiệm.
Richard biết, vì mến những đứa trẻ nên ông ta không muốn làm chúng đau lòng.
- Chúng ta sẽ trở lại thăm nó chứ? Rosy hỏi.
- Không, nó sẽ ở lại đây – người mẹ đáp. Nhưng bác sĩ sẽ chăm sóc nó. Con đừng lo.
Hai người đàn ông khiêng con vật được bọc trong mền. Khi vào tới phòng mổ, viên thú ý xem xét nó và tuyên bố:
- Thật kỳ lạ, con chó này đang lên cơn sốt. Tôi chưa bao giờ thấy như thế.
- Có thể là do nó bị cú đụng mạnh.
- Có lẽ.
Richard cám ơn người thầy thuốc rồi quay trở lại với vợ con. Ông hơi ngần ngại vì không biết có nên để lại danh thiếp để sau này viên thú y gửi biên lai tính tiền cho mình. Nhưng nghĩ thế nào ông lại bỏ qua ý định ấy.
Dĩ nhiên, vụ đi nghỉ hè đã bắt đầu với một dấu hiệu xấu.
Và hai đứa bé vẫn nước mắt lưng tròng.


- 2 -


ỆNH VIỆN PITIE PORTLAND, OREGON
Thứ ba, 10 giờ 30
Một buổi sáng có sương mù và lạnh. Trời có thể mưa. Nhưng Scully chẳng để ý gì tới thời tiết. Bởi phần lớn trong ngày cô sẽ phải làm việc trong nhà xác của thành phố cùng với Mulder.
Scully đã thực hiện nhiều cuộc phẫu thuật từ lúc khởi đầu nghề nghiệp. Cô quá quen thuộc đối với việc lôi những xác chết ra khỏi ngăn tủ lạnh. Tuy nhiên cô vẫn không chịu nổi không khí của những nơi ấy.
Viện pháp y Portland, như đa số các nhà xác ở Mỹ, nằm ở tầng hầm cuối cùng của bệnh viện trung ương. Bốn bề vắng ngắt.
Bác sĩ pháp y, Frank Quioton, là một người đàn ông trạc 50 tuổi, tóc bạc và luôn tươi cười. Thấy ông có vẻ như một thầy thuốc gia đình, Scully cho rằng ông đóng kịch như tất cả các bác sĩ pháp y trên thế giới.
“Ông đã xét nghiệm bao nhiêu thanh niên chết về tai nạn mô-tô. Nghiên cứu bao nhiêu vụ tự tử và án mạng? Và mổ xẻ bao nhiêu xác chết? Scully tự hỏi.
Ông bắt tay hai thành viên của FBI.
- Cám ơn bác sĩ – Mulder nói. Như tôi đã giải thích trong điện thoại, cô Scully mà tôi giới thiệu với ông đây cũng là thầy thuốc. Tôi nghĩ rằng ý kiến của cô ấy sẽ có thể giúp ích cho chúng ta.
Scully tiến lên một bước.
- Tôi chỉ quan sát xác chết một chút thôi – nàng nòi. Tôi đã đọc bản báo cáo của ông. Tôi không rõ cái gì đã gây ra những khối u ghê gớm như thế, cần phải đợi kết luận của Trung tâm dịch tễ quốc gia.
Ông bác sĩ già lắc đậu.
- Vụ này quả là kinh khủng. Trong quá trình hành nghề, tôi chưa bao giờ thấy một hiện tượng như vậy! Tôi sẽ vui mừng biết bao nếu cô có thể nói ngược lại sự chẩn đoán của tôi. Nhưng nếu tôi không lầm thì đây là một chứng bệnh mới, và chúng ta vô phương chống đỡ. Tôi đã để thi hài trong một phòng lạnh đặc biệt, và sử dụng thuốc tẩy uế theo đúng nguyên tắc.
Ông ra dấu cho người phụ nữ mang lại cho ông cuốn sổ tay rồi nói:
- Cái xác ở trong 4E.
Mọi người đi vào một hành lang. những bức tường đều có những ngăn kéo, mỗi cái chứa một xác chết. Đa số những người ấy chết với cái chết tự nhiên: bệnh tim mạch, già nua nhưng ngăn kéo 4E thì khác hẳn. Nó được niêm phong bằng một cái băng màu vàng và đen. Mảnh giấy ghi hàng chữ Nguy hiểm! Lây nhiễm sinh học! Dán ở phía dưới con số.
- Cám ơn Edmund, anh có thể đi theo chúng tôi – bác sĩ Frank nói với người phụ tá.
Scully tỏ ra quan tâm tới nội vụ, nhưng Mulder thì lừng khừng đứng yên tại chỗ.
Frank báo cáo miệng:
- Khi người ta mang đến cho chúng tôi cái xác này, chúng tôi nhìn thấy những khối u, những bầm tím, những hạch xoài. Thông thường những triệu chứng ấy chỉ xuất hiện trong những bệnh tật với sự tiến triển chậm. May mắn thay cho tất cả mọi người, các cảnh sát khi phát hiện ra nạn nhân đã hết sức thận trọng. Khi nhìn thấy hiện tượng kinh khiếp ấy, họ lập tức sử dụng biện pháp phòng ngừa: bao tay, túi nhựa có khóa kéo Éclair… Lúc xác chết được đưa tới, chúng tôi ném vào lò thiêu tất cả những cái gì đã đụng chạm vào anh ta. Tôi thực hiện cuộc xét nghiệm đầu tiên trong những điều kiện thông thường đối với sự cách ly, kiểm dịch… thật thế, cái xác phủ đầy một thứ nước nhầy, một chất nhớt.
- Chất nhớt? Mulder lặp lại.
Với sự giúp đỡ của Edmund, người phụ tá, Frank gỡ niêm phong rồi mở ngăn kéo. Cái “túi thịt” cũng được dán một mảnh giấy khác: Không được mở. Tang vật cảnh sát.”
Edmund đeo bao tay khử trùng và kéo ngăn 4E ra.
Một làn sương trắng tỏa khắp phòng và nhiệt độ hạ xuống, Edmund mở cái túi, rồi từ từ gỡ tấm ra phủ xác chết.
- Các vị coi đó – hắn thầm thì. Ở đây có nhiều cái kỳ quặc, nhưng chưa bao giờ lại thấy có tình trạng như thế này?
Edmund tránh ra một bên. Mulder, Scully và Frank tiến lên. Mùi thuốc tẩy uế nặng nề khó chịu. Người ta cảm thấy bị cay mắt. Scully nghiêng mình để nhìn cái cảnh tượng kinh khủng ấy, cô đã tiếp xúc với nhiều xác chết, nhưng chưa bao giờ gặp trường hợp như thế này. Thi thể của người gác dan phủ đầy máu đông và những bọc máu. Có những cái bướu kỳ lạ trên tứ chi và nửa mình trên, giống như bắp rang nổ ở dưới da.
Cô cắn môi.
- Tôi không hiểu – Cô nói. Tại sao những khối u lại phát triển mau chóng như thế. Tốc độ của sự tái sản xuất các tế bào của con người không thể thực hiện nhanh được như vậy.
Cô cúi xuống để quan sát thi thể gần hơn. Nó bị bao phủ bởi một cái màng mỏng của chất nhờn nhầy nhụa.
- Biết rằng đây là một trường hợp có thể lây nhiễm cao, nên chúng tôi đã xử lý một cách thận trong trường hợp này. Các chuyên viên của CDC, Trung tâm điều hành những vụ báo động dịch tễ, đang tiến hành những cuộc phân tích. Ngày một ngày hai, họ sẽ phải gửi cho chúng tôi những kết quả của họ. Tôi cũng đích thân thực hiện những thí nghiệm hạn hẹp, do những điều kiện an toàn. Hơn nữa, tại bệnh viện này, chúng tôi không có đủ phương tiện cần thiết, bác sĩ Frank nói.
Scully ném một cái nhìn về phía bạn đồng nghiệp.
- Đúng như anh nói, vụ này quả thật là kỳ lạ.
Viên phụ tá đưa cho Scully một đôi găng tay. Cô đeo vào tay, rồi sờ lên thi thể người quá cố.
Cô giật mình.
Bình thường, khi sờ vào một xác chết thì thấy nó lạnh và cứng. Nhưng cái xác này lại nóng bỏng.
- Người đàn ông này được đưa tới đây khi nào?
- Hôm chủ nhật – bác sĩ Frank đáp.
Từ chỗ đứng, Scully có thể cảm thấy cái lạnh dữ đội của vách tủ lạnh.
- Nhiệt độ thể xác của đối tượng này? Cô hỏi.
Ông bác sĩ đặt một tay – dĩ nhiên là đeo găng - lên xác chết. Lập tức ông thay đổi thái độ và quay lại người phụ tá trung thành luôn nhìn ông với vẻ mặt tươi tỉnh.
- Edmund, chuyện gì đã xảy ra? Bộ những cái tủ lạnh thổ tả này bị hỏng sao? Người thằng chả nóng hổi? Cần phải giữ độ lạnh nếu không nó sẽ bị hư thối và cảnh sát sẽ chẳng còn gì để làm chứng cứ, và hãy nghĩ tới vấn đề cách ly kiểm dịch.
Người phụ tá lắp bắp:
- Tôi… tôi sẽ đi tìm ê kíp bảo trì, thưa ông. À… không, trước hết tôi phải coi xem…
Anh mở cánh cửa sập ở trong tường, xem xét sự vận hành của cái tủ lạnh khổng lồ.
- Nhưng tôi không thể hiểu nổi – anh ta nói tiếp. Không có một sự trục trặc nào.
Frank nổi đóa.
- Nếu anh không tin thì thử sờ vào đó xem sao?
Edmund run lên, ông chủ của anh đã nói với một giọng gay gắt:
- À, ồ… không tôi rất tin ở ông. Tôi sẽ đi tìm ê kíp… vâng, đúng thế!
- Lẹ lên!
Frank rút đôi găng ra với một thái độ ghê sợ. Scully cũng làm như vậy. Đi tẩy uế bàn tay.
NGÔI NHÀ CỦA GIA ĐÌNH KENNESSY – TIGARD, ORGEGON
Thứ ba, 12 giờ 17
Ngôi nhà được xây dựng cùng kiểu với những nhà khác trong phố. Khu ngoại ô của Portland ấy hoàn toàn yên tĩnh. Những mái nhà thẳng hàng và những khu vườn giống hệt nhau tạo nên một khung cảnh tuy đơn điệu nhưng thanh bình.
Mulder nhìn ngôi nhà.
- Kỳ thật! Anh cứ nghĩ rằng nơi cư ngụ của một giám đốc trung tâm nghiên cứu thì phải sang trọng hơn chứ. Và anh cứ tưởng sẽ nhìn thấy một cái áo trắng phấp phới bay ở phía trên hộp thư.
- Cuộc sống của các nhà nghiên cứu không được sung túc như thiên hạ nghĩ đâu, Scully phản bác. Họ làm gì có thì giờ để chơi golf bên cạnh hồ bơi. Và rồi…
Cô thở dài trước khi tiếp lời:
- … Thiết tưởng cũng nên biết gia đình Kennessy có những khoản chi tiêu đặc biệt.
Scully và Mulder đã có đầy đủ những thông tin về Kennessy do cư dân ở trong vùng cung cấp. Bệnh bạch cầu tai hại đã giết dần mòn đứa con trai của họ, khiến họ mỗi ngày một nghèo đi. Họ đã phải chi tới đồng đô la cuối cùng để trị liệu cho nó.
Chỉ cần hai bước chân là đến cửa ngôi nhà. Trời lạnh và ẩm ướt. Mulder giơ tay lên vuốt tóc, còn cô bạn thì xem xét lại các khuy áo của mình.
Trước tình trạng khủng khiếp của thi hài ở nhà xác, Scully tự nhủ bằng bất cứ giá nào cũng sẽ tìm hiểu xem nhà khoa học ấy đã chế tạo cái gì trong phòng thí nghiệm của ông ta. Tất cả những tài liệu liên quan tới sự hoạt động của DyMar đã bị hủy hoại trong cơn hỏa hoạn. Mulder cũng chẳng thu lượm được một thông tin nào từ chính phủ liên bang, cơ quan tài trợ cho DyMar.
Mulder quan tâm đến việc này bởi sự huyền bí vây chung quanh nó, còn Scully thì bởi khía cạnh khoa học.
Tuy nhiên, Scully biết rằng Patricia, góa phụ của Kennessy, sẽ chẳng giúp được gì cho cô. Các nhà khoa học ít khi nào nói những công trình của họ cho vợ con. Nhưng tình trạng hiện tại buộc cô phải gặp tất cả những người quen biết nhà bác học.
Khi tới gần cửa, Mulder đảo mắt nhìn chung quanh. Màn cửa sổ khép, nhà chứa xe cửa đóng then cài. Không có một dấu hiệu nào của cuộc sống. Anh chợt nhìn thấy ở dưới đất tờ nhật báo cùng với một chồng thư. Đó là tờ Portland Oregonian, ấn bản đặc biệt của ngày chủ nhật… Và hôm nay là thứ ba!
- Theo những dò hỏi của tôi, Mulder nói, Patricia là một nhà kiến trúc. Bà đã chỉ đạo xây cất nhiều cao ốc. Cái gì đã khiến bà ấy tới đây cư ngụ và sống trong ngôi nhà tiền chế này?
Scully ném cho anh một cái nhìn chế nhạo.
- Em thấy nơi đây còn tốt hơn căn hộ của anh nhiều.
Mulder không đáp và định bấm chuông, nhưng thình lình Scully ngăn lại.
- Coi kìa!
Một kẻ nào đó đã bẻ khóa cửa rồi dùng thanh gỗ che lỗ thủng để khách bộ hành không nhìn thấy.
- Mulder, em nghĩ rằng trong trường hợp này, chúng ta có thẻ vào mà không cần phải có giấy phép lục soát.
Theo nguyên tắc, Mulder hét to:
- Cảnh sát liên bang, không được động đậy!
Chỉ có tiếng vang của căn nhà trả lời anh.
Trong nhà khong có nơi nào mà không bị lục soát.
Tủ, ngăn kéo bị hất tung. Thảm lát sàn bị rạch tan hoang, tất cả những bìa sách cũng bị xé ra. Người ta không bỏ sót một tí gì.
Scully lắc đầu:
- Sẽ chẳng tìm thấy một ai đâu. Chúng ta đến quá muộn.
Tuy vậy, họ cũng lục soát tất cả những căn phòng của ngôi nhà.
Scully tự hỏi không biết kẻ nào đã phá phách như thế. Những kẻ khủng bố của nhóm sinh thái đã thiêu hủy phòng thí nghiệm DyMar, không có lý do nào để thù ghét luôn cả gia đình David Kennessy. Liệu Patricia và Jody có ở đây lúc chúng đến không?
Mulder hình như đọc được ý nghĩ của cô, bởi anh thầm thì:
- Chúng đã bắt cóc họ.
- Vâng, hoặc giết chết
Họ quan sát tất cả các căn phòng. Scully cứ sợ mình sẽ phát hiện bà mẹ và cậu con trai miệng bị dán băng keo, bị trói, hoặc bị hạ sát với một viên đạn vào đầu.
Nhưng họ không tìm thấy một ai.
- Cần phải báo cho phòng thí nghiệm – Mulder nói. Chúng ta cần biết xem tên tội phạm hoặc bè lũ của chúng có để lại dấu tay trên các đồ vật không.
Bởi một lý do không rõ, chúng đã lục soát kỹ càng văn phòng của bé Jody. Giường bị lật tung, đệm bị banh ra, đồ đạc bị tháo gỡ, đồ chơi bị phá phách.
- Thô bạo và chính xác làm sao! Chúng không bỏ sót một tí gì! Scully thở dài.
Mulder thu nhặt những cái gì còn lại của mô hình chiếc phi thuyền không gian ở trong phim “Ngày độc lập”. Đứa bé đã bỏ nhiều công phu để lắp ráp với niềm say mê.
Mulder đứng dậy:
- Âm mưu chống DyMar và cái chết của bác sĩ Kennessy xảy ra cách đây hai tuần. Chúng ta không biết bọn chúng tới phá phách nhà này vào thời điểm nào. Những người lối xóm không thấy có dấu hiệu nào bất thường.
- Chú bé Jody đang ở trong thời kỳ trị liệu. Nó phải đi đi về về, nằm dài ngày ở bệnh viện, có thể đã rời khỏi tiểu bang đi New Yor để cho các chuyên viên khám bệnh. Như vậy xóm giềng phải biết ngôi nhà vắng người.
Scully cúi xuống nhặt một chiếc máy bay nhỏ, cánh bị gãy. Một sợi dây nylon buộc vào đó. Có lẽ nó được treo trên trần nhà trước thảm kịch. Người ta đã mở cả cánh máy bay. Người ta muốn tìm cái gì?
- Thôi được, chúng ta cần phải đi xem những gì còn lại của DyMar – Mulder nói.
Scully nghĩ chắc bé Jody sợ lắm. Nó đã bị suy sụp bởi ung thư và biết chắc mình sẽ chết. Nếu người ta bắt cóc đứa bé ấy tức là người ta đã ngăn cản không cho nó được tiếp tục trị liệu. Đó là một tội ác!
Scully đi theo Mulder đi vào bếp. Họ phải cẩn trọng để không giẫm lên những mảnh thủy tinh và những cốc tách ngổn ngang trên đất.
Scully nổi giận:
- Cần phải mở một hồ sơ mới về vụ này: đây là một vụ bắt cóc. Bé Jody chỉ còn vài tháng để sống. Nó phải được nhập viện.
Mulder xem xét kỹ một cái tô bằng nhựa màu da cam để cho chó ăn. Người ta đã ghi tên nó: VADOR. Những thức ăn trong tô đã bị mốc meo.
- Scully, cái nhóm người điên khùng ấy có thể bắt cóc Jody và Patricia, nhưng chúng làm gì với con chó? Nó ở đâu? Nếu nhiều ngày qua không được ăn, hiển nhiên nó phải sủa vang trước cái lạnh!
Cô bạn anh cau mày:
- Trừ phi chúng cũng bắt cóc cả con chó.
Mulder gãi cằm:
- Con chó? Nhưng tại sao lại bắt cóc nó?
Giây phút im lặng.
- O.K, chúng ta sẽ ghi thêm tên con Vador vào danh sách những người mất tích – Mulder kết luận. Vụ việc này chắc còn nhiều rắc rối.
MỘT VÙNG QUÊ Ở OREGON
Thứ ba, 14h05
Sẽ chẳng bao giò có ai tìm thấy họ, trong ngôi nhà nằm ở cuối những rặng đồi mênh mông của vùng Oregon hẻo lánh.
Cô đơn, tuyệt vọng, Patricia và Jody cố gắng để không bỏ cuộc và để tiếp tục sống bình thường, hoặc chí ít cũng ra vẻ như vậy.
Nhưng ngày lại ngày, nỗi sợ là thế giới của họ. Một cái bóng cây cũng làm họ giật mình. Tiếng động của đêm tối khiến họ khiếp hãi. Nhưng họ không có sự lựa chọn nào khác ngoài sự chịu đựng.
Patricia đi về phía cửa sổ, vạch rèm ra và ngắm nghía bé Jody đang chơi với trái banh quần vợt. Nó ném banh vào bức tường bên ngoài. Patricia biết rõ ngôi nhà này. Chính nàng đã vẽ kiểu cho người cộng tác với chồng nàng: Jeremy Dorman. Xưa kia, nàng rất thích chốn này. Nhưng sự thể đã thay đổi. Và cảnh vật cũng vậy: nạn phá rừng không còn là một từ ngữ trừu tượng trong vùng này.
Một chiếc máy bay vừa bay vụt qua. Patricia chăm chú theo dõi nó để biết chắc rằng nó không chup hình. Nang luôn phải đề phòng. Lo âu là chuyện thương nhật của nàng từ khi DyMar bị tấn công. Nhưng bé Jody thì vẫn kiên cường, dũng cảm… giống như khi người giải thích cho nó biết rằng nó bị bệnh bạch cầu.
Với Patricia, những âm mưu, những kẻ sát nhân, tất cả những cái đó không máy quan trọng, bời không có gì có thể khủng khiếp hơn là nhìn thấy đứa con trai của mình chết…
Jody lại ném trái banh nhưng không trúng tường. Trái banh lăn trong đám cỏ. Jody thích thú chạy theo nó lấy chân đá nó như một cầu thủ. Patricia dựa vào cửa sổ để nhìn thấy đứa bé rõ hơn. Từ sau tai ương, nàng không bao giờ rời xa con, dù chỉ một giây.
Bây giở Jody có vẻ khỏe hơn. Nàgn không biết mình nên ngợi khen hay nguyền rủa người chồng của mình về những điều ông ta đã làm.
Đứa bé thản nhiên chịu đựng hoàn cảnh. Đã một tuần rưỡi nay, nó sống với mẹ tại vùng hẻo lánh này. Nhưng nó không còn sợ hãi nữa… Nó vui đùa để quên đi nỗi buồn.
Tám tuổi, tuổi thơ ấu vô tư. Nhưng Jody không còn là một đứa bé như những đứa trẻ khác. Nó có những vấn đề. Số phận chưa quyết định để cho nó sống hay chết.
Patricia rời khỏi nhà và thận trọng không để lộ sự lo âu của mình.
Một lần nữa, mây tan. Người ta có thể nhìn thấy một vùng trời cao rộng. Không khí hãy còn ẩm ướt. Đêm hôm trước có một trận mưa rào. Patricia sực tỉnh và ngắm nhìn trần nhà trong nhiều giờ lúc nghe mưa rơi và gió thổi.
Nhưng chiều nay trời đẹp. Hàng thông reo vi vu. Bùn phủ đầy con đường dẫn ra quốc lộ đã khô dần.
Trên lý thuyết, chẳng có ai biết sự hiện hữu của ngôi nhà. Jeremy chẳng có điện thoại, cũng chẳng có đèn điện. Một sự cách biệt hoàn toàn. Patricia hy vọng sẽ không có ai tới đây để tìm hai mẹ con nàng.
Bất chợt, đứa bé ném trái banh vào trong một vũng bùn. Nó lầu bầu và chạy đi lượm. Thấy trái banh ướt sũng không còn dùng được nữa, nó cáu kỉnh vứt vào một gốc cây. Patricia lại gần mỉm cười hỏi:
-- Chuyện gì vậy cưng?
Jody đong đưa một chân và đăm đăm nhìn xuống đất.
- Hãy nói cho mẹ biết có điều gì không suôn sẻ?
- Con Vador – sau cùng nó giải thích. Con chó chay đi đâu tối hôm qua vẫn chưa trở về.
Con chó… à phải. Patricia hiểu ra.
- Jody, con cứ yên tâm. Vador khôn lắm. Không có chuyện gì xảy ra với nó đâu. Đứa bé và con chó cùng một tuổi. Và chúng cùng lớn lên. Bảy năm về trước, hình như tất cả mọi sự đều tốt đẹp. Patricia hãy còn nhớ đứa bé ngồi ở giữa phòng thí nghiệm, cố gắng bập bẹ “ba”, “má” và “Darth Vador”. Nhưng tên con chó phát âm khó quá. Jody chỉ có thể nói “Naf Vrrrr”. Biết bao lần David và Patricia đã rũ ra cười khi nhìn con trai họ chơi đùa với con vật. Vador cố gắng chạy trên sàn gạch vuông của phòng thí nghiệm, nhưng những cái móng của nó làm cho nó trượt dài. Nó đành xoay chung quanh đứa bé, Jody vỗ tay để hoan hô nó.
Những ngày hạnh phúc ấy hình như quá xa. Tất cả đã thay đổi trong cái đêm định mệnh: Nàng nhận được một cú điện thoại của chồng nàng. David gọi cho nàng từ phòng thí nghiệm. Gọi cầu cứu. Từ sau giây phút ấy, Patricia không bao giờ còn được thanh thản nữa.
- Mẹ ơi, nếu Vador ngã xuống một cái hố? Nếu nó bị thương nó sẽ không thể trở về được.
Patricia cảm thấy tim mình se lại. Đứa bé ứa nước mắt.
- Mẹ ơi, nếu nó bị mắc chân vào bẫy của những người đi săn? Hoặc nếu người đi săn lại bắn vào nó vì ngỡ nó là một con vật khác?
Mẹ nó mỉm cười.
- Đừng lo con ạ. Vador sẽ trở về. Nó luôn trở về với con, con đã biết đấy.
Nàng rùng mình nhìn chung quanh.
Phải, Vador luôn trở về.
Như thường lệ.

- 3 -


ỆNH VIỆN PITIE – PHÒNG PHẪU – PORTLAND, OREGON
Thứ ba, 14 giờ 24
Qua bao tay, Scully vẫn cảm thấy sự mềm mại của xác chết. Cô dành hết thì giờ để xem xét nó.
Cái mặt nạ cung cấp oxy thổi một luồng không khi khô vào mũi cô. Scully cảm thấy bị cay mắt.
Scully đặt cái máy ghi âm đọc trên bàn để các dụng cụ. Càng khám xét kỹ cô càng phát hiện những triệu chứng không thể giải thích được, những chi tiết khủng khiếp.
Cô bắt đầu nói vào máy ghi âm:
- Tên của đối tượng: Vernon Ruckman. Tuổi: khoảng 32 tuổi. Thể trọng: 75kg. Hình như hắn hoàn toàn khỏe mạnh cho tới khi… cái gì đã xảy ra với hắn.
Cô nhìn cái cơ thể đầy những u bướu và đốm. Những ngấn thịt đầy máu đông hình thành dưới mắt. Mặt của nạn nhân biểu hiện sự khiếp đảm.
- May mắn là những điều kiện cách ly kiểm dịch đã được tiến hành ngay khi người ta phát giác cái xác. Tôi không biết nguyên nhân cái chết của người này, nhưng đoán chắc rằng đó là một chứng bệnh có khả năng lây nhiễm khủng khiếp.
Scully thở dài khi đề cập tới vấn đề mấu chốt:
- Những triệu chứng bên ngoài như: hạch, những chỗ sưng dưới da khiến tôi nghĩ tới bệnh dịch hạch đã sát hại chín phần mười dân chúng châu Âu vào thời Trung Cổ. Nhưng ngay cả khi mắc cái bệnh dịch hạch ghê gớm mấy, nạn nhân cũng còn thoi thóp được vài ngày. Tôi không hiểu do đâu mà người này lại chết một cách mau chóng như vây. Ở những trường hợp khác độc tố tấn công vào hệ thần kinh hoặc quá chậm hoặc gây ra những triệu chứng không ghê gớm như những triệu chứng này.
Scully sờ vào cánh tay của Vernon. Da hắn thõng xuống như một tấm drap.
- Hình như các mô nối biểu bì với cơ bắp đã bị hư hại nặng, thậm chí còn bị phá hủy. Các cơ bắp cũng vậy.
Cô bóp cánh tay. Thay vì cứng đơ, nó mềm nhão.
- Các cơ bắp làm tôi nghĩ tới miếng thịt ươn.
Thình lình, da nạn nhân rạn nứt và bung ra dưới những ngón tay của Scully. Cô lùi lại kinh ngạc. Một chất lỏng trắng nhợt, giống như xi-rô, chảy ra từ vết thương.
- Kỳ lạ. Một chất gì vừa chảy ra từ một vết thương. Một thứ nước nhầy tích tụ dưới da của đối tượng. Những thao tác của tôi đã giải phóng nó.
Cô nhúng những đầu ngón tay vào đó rồi cọ vào nhau. Chất lỏng dính nhơm nhớp; rồi thay đổi cấu trúc, nhỏ giọt và rớt xuống thi thể.
- Tôi chưa bao giờ thấy cái gì như thế.
Scully thở dài.
- Tiếp tục xem xét khoang bụng.
Cô kéo về phía mình cái bàn đựng dụng cụ phẫu thuật.
Cô cần phải rạch nửa phần trên, nhưng phải rất thận trọng kẻo bị đứt găng tay, công việc ấy đòi hỏi sức mạnh. Cơ thể của một người chết không thể dễ dàng banh ra. Phải có một cái banh (écarteur). Sau cùng, cô cũng thọc được tay vào bụng Vermon, dò dẫm tìm những bộ phận nội tạng.
Kiểm kê thường lệ: Phổi, gan, tim, ruột, rồi cân nhắc từng cái một.
- Rất khó để phẩn biệt các cơ phận, do sự hiện hữu của hàng trăm… không, hàng ngàn khối u!
Thi thể nạn nhân đầy những khối u, những chỗ phình ra… Scully nhận thấy, trong lúc di chuyển các cơ phận, những khối u ấy và những chỗ lồi lõm dưới lớp thịt động đậy. Có vẻ như chúng chứa một thành phần sinh động.
Scully còn phát hiện những túi chứa đầy chất nhầy chảy ra từ cánh tay. Đặc biệt, ở giữa hai lá phổi còn có một thứ chất lỏng. Cô lấy ra một ít làm mẫu, đổ vào trong hai ống nghiệm với hàng chữ Không được mở – Cực kỳ nguy hiểm bởi lây nhiễm sinh học.
Cô sẽ đích thân phân tích dung dịch ấy.
Scully tiếp tục nói vào máy ghi âm:
- Kết luận đầu tiên của tôi chỉ là một sự tư biện thuần túy. Tôi nghĩ rằng những thử nghiệm sinh học mà bác sĩ David Kennessy thực hiện ở DyMar có thể đã tạo ra một sinh vật mới. Không ai biết chính xác những cuộc nghiên cứu của ông ta.
Scully nhìn thi thể của Vermon đã được banh ra. Nếu tình trạng quả thật nghiêm trọng như cô nghĩ thì Mulder và cô sẽ không bao giờ có thể tìm ra giải pháp. Họ cần được giúp đỡ.
- Những khối u lúc nhúc trong thi thể đã chứng tỏ rằng các tế bào đã sinh sôi nẩy nở với tốc độ ghê gớm. Kennessy là chuyên gia trong lĩnh vực chống ung thư. Rất có thể trong quá trình nghiên cứu ông đã tạo ra một loại ung thư mới cực kỳ nguy hiểm.
Một ý nghĩ rùng rợn! Cô thở sâu trước khi tiếp lời:
- Tôi không có một chứng cứ nào để có thể bảo vệ cho giả thuyết ấy. Nhưng những điều tôi vừa nhận thấy trong cuộc giải phẫu Vermon buộc tôi phải cân nhắc. Chúng ta cũng đừng quên rằng đối tượng hoàn toàn khỏe mạnh vài giờ trước khi chết.
Scully đã hỏi cô bạn của người quá cố, một nữ tiếp viên phục vụ bán thời gian trong một tửu quán. Cô bảo rằng đã đi chơi với Vermon, rồi làm tình với anh ta trước khi anh ta tới sở làm. Cô ta còn nói thêm:
- Tối hôm ấy tôi đã trông thấy da của anh ấy, thấy hết. Cô hiểu tôi muốn nói gì rồi chứ. Hoàn toàn bình thường. Tôi cam đoan như vậy!
Scully nhìn cái xác. Nếu con người khốn khổ ấy có những triệu chứng, cô bạn anh ta phải nhận ra ngay. Như vậy, sự lây nhiễm và cái chết đã diễn ra vài giờ sau khi cô ta gặp Vermon. Nạn nhân không có thì giờ để chạy chữa đồng thời cũng không hiểu chuyện đã xảy ra với mình.
Scully cũng thế, cô bị ung thư mũi – hầu như không mổ được. Cô biết mình sẽ chết, nhưng tối thiểu cũng cầm cự được vài tháng hoặc rất có thể vài năm.
BỆNH VIỆN THÚ Y HUGRART – THỊ TRẤN LINCOLN, OREGON
Thứ ba, 1 giờ 11 sáng
Bác sĩ Elliott Hughart phân vân: để cho con chó labrador chết vì những vết thương của nó, hoặc kết liễu đời nó bằng một mũi tiêm. Con chó nằm trên bàn. Nó vẫn còn thở. Con vật cố bám víu lấy sự sống.
Bên ngoài tối đen. Trời mưa, không khí mát rượi. Nhưng Elliot cảm thấy bị nhức đầu. Mùi của thuốc cộng với mùi của những con vật khiến người ta ngột ngạt. Ông mở cửa trông ra phía ngoài.
Con Labrador vẫn rên rỉ. Elliot đã làm tất cả: băng bó những xương sườn bị gãy, khử trùng các vết thương. Nhưng máu nó vẫn chảy từ mõm xuống bàn. Con vật chẳng có một hy vọng nào. Cho dù có phép lạ đi chăng nữa thì nó cũng sẽ chết.
Elliot thở dài.
Con vật luôn rùng mình. Nhiệt độ cơ thể nó tăng vọt. Ông chưa bao giờ thấy trường hợp nào kỳ lạ như thế. Ông cho rằng ngoài những vết thương, nó còn bị nhiễm trùng, do đó mới lên cơn sốt. Theo lệ thường, ông trích lấy máu của nó để phân tích.
Điều ông khám phá đã khiến ông kinh ngạc.
Tình trạng con Labrador xem ra đã khá hơn, những vết thương của nó hình như đang lên sẹo…
Không, Elliot tự nhủ – cái đó có thể là kết quả của trí tưởng tượng của ông, của ước muốn được thấy con vật khỏi bệnh.
Ông vạch mí mắt trái của nó. Mắt bị che phủ bởi một chất giống như sữa. Nó đang trong tình trạng hôn mê. Máu vẫn chảy ra từ mũi của nó.
Thế là đủ rồi. Không nên để cho sự đau đớn của nó kéo dài. Cần phải chấm dứt cơn hấp hối của nó.
Ông mở chìa khóa tủ lấy ra một lọ.
Con chó không hề động đậy khi ông chích thuốc vào cổ nó. Ông sử dụng một liều mạnh để cho con vật không bị đau và cũng là bởi vì ông không biết rõ thể trọng của nó.
- Thôi, giã từ Toutou nhé. Mày sẽ lên thiên đàng của những con chó, ở đó mày có thể săn thỏ mà không bị ô tô đè bẹp.
Cánh cửa trông ra phía ngoài luôn mở rộng. Gió thổi vào mát rượi. Nhưng nhiệt độ của con vật vẫn không hạ xuống chút nào. Tại sao con vật lại có nhiệt độ cao như vậy? Sự chấn thương gây ra bởi tai nạn có thể là nguyên nhân. Cần phải thực hiện những phân tích kỹ hơn.
Elliot lấy mẫu máu đi vào phòng thí nghiệm nhỏ đặt ở cuối gian phòng.
Đầu tiên ông phân tích bạch huyết cầu.
Nếu con chó bị ốm nặng trước tai nạn, điều đó giải thích tại sao nó bị sốt và cũng giải thích tại sao nó không thể tránh được ô tô. Ông bật đèn và để một giọt máu lên bản kính rồi đặt nó dưới kính hiển vi.
- Kỳ quoặc!
Lúc này con chó phải chết vì thuốc độc… nhưng mẫu máu của nó vẫn còn sinh động!
Thêm vào những bạch huyết cầu, hồng huyết cầu và tiểu cầu, Elliot còn nhận thấy những thành phần mà trước kia ông chưa bao giờ trông thấy và chúng có những ánh bạc… những tinh thể nhỏ mang hình thù của những ánh tỏi động đậy!
Có thể nói rằng máu ấy bị xâm nhập bởi một sinh vật ký sinh hoặc một virus hoạt tính.
Những ánh bạc chạy chung quanh các tế bào như thể chúng có một sứ mạng nào đó.
- Quả thật là phi thường, ông thầm thì.
Giọng nói của ông vang lên trong căn phòng nhỏ. Đôi khi ông nói với những con vật,, nhưng ông không có thói quen thốt ra lời. Ông nuối tiếc không có một phụ tá ở bên cạnh để cùng nhau quan sát sự phát triển kỳ là này.
Elliot hành nghề thú y đã lâu. Ông đọc các tạp chí của ngành và theo dõi tất cả những điều mới lạ, nhưng chưa bao giờ thấy một hiện tượng như vậy.
Đây là bệnh gì? Ông hy vọng nó không lây!
Bất chợt ông thấy lạnh xương sống. Nếu con chó mắc một chứng bệnh chưa ai biết, cần phải báo ngay cho C.D.C (Trung tâm kiểm soát bệnh dịch – Center for Disease control (khách xa)). Trong trường hợp dịch cổ điển, ông biết mình phải làm gì. Nhưng cái thứ ánh bạc quỉ quái này giống như… ừ, giống như những cái máy!
Ông dụi mắt và nhìn chúng một lần nữa, tim đập mạnh.
Đúng là những cái máy tí hon, có thể là những robot nhỏ xíu, chúng di chuyển các tế bào với một vận tốc cực nhanh, như tuân theo một phương án đã xếp đặt từ trước.
Thình lình, tiếng kêu của những con vật ở trong phòng thành những tiếng tru. Elliot quay lại để xem chuyện gì đã xảy ra. Ông đụng phải cái ghế đẩu, vừa xoa xoa đùi rồi bước thấp bước cao. Trong chuồng, những con vật nằm sát vào nhau. Có một cái gì đó khiến chúng sợ.
Elliot không nhìn về phía bàn phẫu – với ông, con chó đã chết, nó không còn là vấn đề nữa.
Nhưng ông hoàn toàn kinh ngạc khi nghe thấy bước chân của con vật trên sàn gạch và nhìn thấy một vệt đen vút đi như một tia chớp qua cái cửa mở rộng, rồi mất hút trong đêm.
Ông nhìn lên bàn. Máu đông, nhưng con chó không còn ở đấy nữa! Ông há hốc. Ông không sao tin nổi: con Labrador đã kháng cự lại mũi chích và làm lành được những vết thương… nó lại còn có khả năng phóng nước đại!
Ông muốn đuổi theo con vật.
- Hê, Toutou, trở lại đây nào!
Nhưng cái chân của ông quặn đau và con vật mất dạng.
PHÒNG THÍ NGHIỆM DYMAR – OIRTKABD, OREGON
Thứ ba, 16 giờ 50
Ánh nắng chói chang trên vùng trời Portland. Mulder cau mày, dừng xe trong bãi đậu của DyMar.
Cả khu vực này đã bị thiệt hại nặng vì hỏa hoạn, nhưng phần lớn các cấu trúc vẫn còn nguyên. Những bức tường bị ám khói, những cái xà rời khỏi trần nhà và tất cả dụng cụ văn phòng – bàn, ghế bành, giá sách, máy vi tính – đều bị phá hủy. Trên đất ngổn ngang những mảnh thủy tinh và tro than.
Scully xuống xe.
- Em không muốn làm anh buồn, Mulder ạ. Nơi này đã được phát mại. Trong vài ngày nữa, người ta sẽ phá trụi để xây một trung tâm thương mại.
- Anh nhận thấy họ quá hấp tấp. Điều đó khiến chúng ta không có đủ thì giờ để xúc tiến một cuộc điều tra hẳn hoi!
Mulder mở hàng rào đã bị sập một lần nữa. Cảnh sát đã treo ở khắp nơi những tấm bảng Nguy hiểm, không được lại gần.
Scully nói:
- Em đã tiếp xúc với giới chức địa phương. Em muốn biết cuộc điều tra của họ về vụ phá hoại đã tới đâu. Họ trả lời rằng đang tiến hành, cái đó có nghĩa là họ vẫn dậm chân tại chỗ.
Mulder nhướng mày.
- Có một cuộc biểu tình, khá đông đảo. Có thể người nọ đã khích người kia và họ trở nên hung hăng.
- Các chuyên viên của FBI đang phân tích thư yêu sách. Trong vài giờ nữa, chúng ta sẽ biết kẻ nào đã nấp phía sau tổ chức “Giải phóng tức khắc”, với một chút may mắn người ta sẽ có những dấu tay và còn có thể điều tra được tự dạng.
Hai người bước vào tòa nhà chính.
Một thứ mùi kinh khủng: bồ hóng, nhựa chảy, sản phẩm hóa học… Mulder ho sù sụ. Anh trông thấy cô đồng nghiệp kín đáo giơ tay lên mặt, và bất chợt anh nhận ra nàng hơi bị chảy máu. Tim anh se thắt nhưng anh không nói gì cả. Tuy mắc chứng bệnh hiểm nghèo, Scully vẫn không chùn bước. Anh rất khâm phục sự dũng cảm của Scully.
Scully đăm đăm nhìn tấm bảng TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU CHỐNG UNG THƯ rồi nhún vai với dáng mệt mỏi.
- Những kẻ hô hào nổi dậy sợ cái gì ở đây chứ. Ngay cả những nhà sinh thái cuồng tín nhất cũng tôn trọng các loại nghiên cứu kiểu này.
- Anh không nghĩ rằng bọn tội phạm lại quan tâm tới việc chống ung thư.
Scully quay về phía bạn đồng nghiệp.
- Chắc anh nghĩ tới các vụ thử nghiệm trên súc vật? Nghe em nói đây. Em đã nghiên cứu các phương pháp hành động của những nhóm chống giải phẫu sinh thể. Họ thường đột nhập vào phòng thí nghiệm để phóng thích vài con chuột hoặc vài con chó. Nhưng họ không bao giờ đi xa hơn.
- Hay họ quan tâm đến vi kỹ thuật?
- Nhưng chúng ta không có gì chứng tỏ Kennessy đã nghiên cứu về vi kỹ thuât. Ông ta chỉ ghi chép khả năng ấy trong cuốn sổ tay cũ mèm mà anh đã đưa cho em coi. Có vậy thôi!
- Dĩ nhiên, nhưng em nên suy nghĩ một chút. Hãy tưởng tượng ông ấy đã thành công trong việc kiến tạo những cái máy bé tí xíu mà người ta có thể thêm vào cơ thể con người, để chúng hoạt động như những cảnh sát sinh hoc ngõ hầu làm lành những tế bào bệnh hoạn. Một vài người có thể nhận thấy khám phá ấy cực kỳ đáng sợ. Cái đó đặt ra những vấn đề đạo đức…
Scully ném cho anh một cái nhìn chế nhạo.
- Em đã đọc những bài báo về vấn đề này. Mọi người hình như đều nhất trí cho rằng còn lâu chúng ta mới chế tạo được những cái máy tí hon ấy!
- Em nói cư như đinh đóng cột. Năm ngoái, một chú bé đã được cấp học bổng về phát mình giỏi nhất trong năm: chú đã chế tạo được một kiểu vi mạch một ngàn lần súc tích hơn kiểu mới nhất của Pentium! Nếu một chú bé có thể thực hiện được một bước nhảy vọt như vậy, thì một khoa học chính hiệu với một ê kíp có tay nghề và lại được chính phủ tài trợ cũng có thể thành công.
- Em biết điều anh sẽ nói. Sự tiểu hình hóa vi tin học gia tăng theo hàm số mũ. Nhưng tất nhiên phải có một giới hạn vật lý, một ngưỡng cửa để bắt đầu từ đó người ta không thể giảm kích thước của những mạch in.
- Scully, em nói đúng, nhưng một số các nhà khoa học hy vọng ở những điều khác hơn là các mạch in. họ nghiên cứu để chế tạo những cái máy nhỏ hơn các tế bào bằng protéine và acide aminé… chứ không phải bằng mạch in! Dù sao mặc lòng, anh cũng đã yêu cầu người ta gửi cho chúng ta một báo cáo đầy đủ về tình trạng hiện nay của cuộc nghiên cứu vi kỹ thuật. Anh nghĩ rằng em sẽ say mê nó.
- Báo cáo ấy chắc không phải do cơ quan cấp?
Mulder làm ra vẻ bí mật:
- Anh có những chỉ điểm viên của anh.
Hai người đi xem xét khắp nơi. Scully không nói một lời. Mulder biết cô rất quan tâm đến vụ điều tra này. Công trình của Kennessy sẽ có thể cứu được cô, chí ít cũng là trên lý thuyết.
Chỗ nào cũng thấy những mảnh thủy tinh. Một đôi nơi, sàn bị sụp để lộ ra tầng hầm thứ nhất. Mulder ngồi xuống lượm một mảnh thủy tinh. Nó sắp sửa tan. Hơi nóng của vụ cháy quả là ghê gớm!
- Kennessy nghĩ rằng mình sắp đạt được mục đích và ông ta còn muốn tiến nhanh hơn bởi không cần chấp nhận một vài qui ước đạo đức. Nhưng người ta biết ddeeif đó, và đám đông đã kéo tới… Phần còn lại của câu chuyện chắc em rõ cả rồi. Anh cho rằng cái nhóm “Giải phóng tức khắc” ấy muốn ngăn cản ông ta tiếp tục và nhất là xóa bỏ tất cả những gì ông ta khám phá.
Scully hất mái tóc ra phía sau, nói:
- Hoá ra khắp mọi nơi anh đều nhìn thấy những âm mưu.


- 4 -


ƯỚI CHÂN CẦU BURNSIDE – PORTLAND, OREGON
Thứ ba, 23 giờ 21
Jeremy cố nhắm mắt ngủ, nhưng những cơn ác mộng cứ bám riết lấy hắn. Jeremy không biết đó là do lương tâm cắn rứt hay là những cái máy nhỏ xíu đang lộng hành trong đầu hắn.
Quần áo dơ dáy và ướt sũng, Jeremy nấp ở dưới gầm cầu và lặng nhìn dòng nước đục ngầu của con sông Willamette. Hắn chợt rùng mình. Phía trên đầu hắn, có tiếng gừ của một vài con bồ câu. Cao hơn nữa, trên cầu, người ta nghe thấy những xe tải chạy trong đêm, đè bẹp những vỏ đồ hộp quăng lăn lóc đâu đó. Một chiếc xe 10 bánh vừa vụt qua. Tiếng rú của động cơ giống như một tiếng nổ.
Một tiếng nổ như đã diễn ra tại DyMar.
Jeremy không bao giờ quên được đêm hôm ấy.
Những tiếng kêu, lửa, khói. Những kẻ giấu mặt, những kẻ hung bạo được những người có thế lực thuê đã tới gieo rắc tai họa.
Jeremy thấy lại tất cả. Có lẽ hắn nằm mơ, cũng có thể hắn đi ngược lại thời gian, hoặc đơn giản hơn, những vi sinh vật trong não bộ hắn đã tạo ra ảo ảnh.
Hắn nói với David Kennessy:
- Những rào cản và vài ba anh cớm ở bên ngoài không đem lại cho tôi một ấn tượng an toàn!
DyMar không phải là một trung tâm được bảo vệ tốt. Chính vì thế, Kennessy đã lén mang vào con Vador của ông và một khẩu súng. Phòng thí nghiệm đã gọi cảnh sát và yêu cầu họ tăng viện. Nhưng họ từ chối.
Jeremy cho rằng thành phố không muốn điều động cảnh sát tới vì những người biểu tình không biểu hiện một sự nguy hiểm nào. Hắn đâu có biết từ chối cứu viện chính là ý đồ của họ.
Kennessy là một nhà thông thái, nhưng ông không hiểu đã xảy ra chuyện gì.
Kennessy nhớ lại rằng, khi đám đông trở nên hung bạo, Kennessy đã thu thập những ghi chép, những băng cassette – y hệt như các nhà bác học trong phim khoa học giả tưởng hy sinh tính mạng của họ để cứu những cuốn sổ nhỏ ghi công thức mà họ đã nghiên cứu trong bao năm.
Kennessy không hiểu… Ông ta hình như muốn chống lại hơn là hãi sợ.
- Đã có những kẻ ngu si – Kennessy nói – muốn cản trở khoa học, nhưng chúng không bao giờ đạt được mục đích. Chẳng một ai có thể ngăn cản sự phát triển của kỹ thuật.
Nhưng Jeremy biết rằng một số người có chức vụ cao trong chính phủ đã có ý định bằng mọi cách xóa bỏ kỹ thuật ấy. Họ đã hứa với Jeremy sẽ để cho hắn có đủ thì giờ để chạy trốn. Nhưng họ đã không giữ lời.
Trong lúc Kennessy điện thoại cho vợ để báo cho biết tình hình nghiêm trọng thì Jeremy lục lọi khắp nơi để tìm những robot tí hon gốc, những cái đã được thử nghiệm trên con Vador của Kennessy.
Những cửa kính bắt đầu bị đập vỡ. Những tiếng hò hét. Với Jeremy, không còn một khả năng nào khác ngoài việc sử dụng ngay những vi sinh vật. Người ta đã chích cho con chó và nó hoàn toàn khỏe mạnh. Những cuộc thử nghiệm trên một đối tượng người cũng đã thành công.
Jeremy ngần ngừ. Hắn biết điều hắn làm sẽ là hành động một chiều. Nhưng người ta đã phản bội hắn, và ý nghĩ ấy đã buộc hắn phải có quyết định.
Jeremy cho thêm vào đó chất hormone hoạt hóa. Những cái máy sẽ làm lại chương trình của chúng từ số không, để thích ứng với sứ mạng mới…
Rồi họ nghe thấy một tiếng nổ lớn. Một trái bom xăng bùng cháy ở đại sảnh. Những tiếng bước chân rầm rập, những giọng nói ban ra các mệnh lệnh chính xác, trong khi đó ở bên ngoài, người ta tiếp tục hò hét.
Kennessy bắt đầu sợ. Đã tới lúc ông phải hiểu. Nhưng đã quá muộn.
Bốn phát súng. Bốn viên đạn vào giữa ngực.
Nhà bác học khốn khổ ngã ngửa ra trên mặt bàn, hai tay bắt chéo. Rồi trung tâm DyMar trở thành địa ngục. Khói lửa mù mịt. Jeremy cố gắng chạy trốn, nhưng hình như những ngọn lửa vẫn đuổi theo hắn. Một tiếng nổ mới hất hắn về phía trước. Hắn lăn tròn trên tấm thảm mà một phần đã bị cháy xém. Hắn chạy đến cầu thang cuốn, ở đó có một lối thoát. Lại một tiếng nổ khác. Hắn cảm thấy biểu bì rạn nứt, da hắn cháy xem. Hắn hét lên, không chỉ vì đau đớn mà còn vì căm phẫn, bởi người ta đã phản bội hắn…
Jeremy hét lên một tiếng rồi tình dậy. Hắn vẫn ở dưới gầm cầu. Tiếng kêu của hắn dội trên mặt nước. Hắn loạng choạng đứng dậy, cảm thấy cơ thể quằn quại. Những cái bướu dưới lớp da sống động và cựa quậy: những sinh thể sáng tạo bởi con người bắt đầu sản xuất…
Hắn nghiến răng, nắm chặt tay. Đừng run nữa… hãy kiểm soát sự đau đớn.
- Không… rồi mọi sự sẽ qua…
Hắn ngắm nhìn gầm cầu nơi hắn đã qua đêm. Năm con bồ cầu nằm đó, tất cả đều chết, mắt trắng dã. Lông chúng rũ rượi, mỏ há ra, cái lưỡi nhỏ bé thò ra ngoài.
Jeremy thấy buồn nôn trước hiện tượng ấy. Nhưng hắn không hề có ý định rằng rồi đây cơ thể hắn cũng sẽ bị tàn phá như vậy. Hắn thu hết nghị lực rồi dò dẫm lên mặt đường. Bất cứ giá nào hắn cũng phải rời khỏi Portland. Nhất định hắn phải tìm bằng được những người mà hắn cần gặp.
Chỉ còn rất ít thời gian. Phải mau chóng tìm ra họ trước khi quá muộn.
BƯU ĐIỆN TRUNG ƯƠNG – MILWAUKIE, OREGON
Thứ tư, 10 giờ 59
Scully và Mulder cùng đến bưu điện. Họ giả vờ điền vào các mẫu khai in sẵn để gửi những lá thư bảo đảm. Cái mà họ quan tâm là những thùng thư ấy, hai người lại trao đổi một cái nhìn nhanh chóng, để sẵn sàng. Những cái hộp được người ta mở ra không phải là 3733! Hơn nữa, chẳng có khách vãng lai nào phù hợp với sự mô tả do cơ quan cung cấp. Mãi nửa giờ sau mới có một anh chàng gầy gò, mặt lưỡi cày tiến về phía các hộp thư.
Đó là một con người kỳ dị: trán bóng lộn như đánh xi, bộ râu để theo kiểu Freud, má lõm và cặp mắt láo liên.
- Mulder, chính hắn.
Alphonse Guric, Scully đã nghiên cứu rất nhiều tấm hình của hắn. Mặc dù hắn đã hóa trang, nhưng nàng vẫn nhận ra hắn.
Mulder kín đáo gật đầu. Như Scully đã tiên liệu, các chuyên viên của cơ quan đã dễ dàng tìm ra nguồn gốc của bức thư. Cái gọi là nhóm “Giải phóng tức khắc” đã viết thư trên giấy có nhãn hiệu, chữ viết cũng không giả mạo, lại còn hai dấu tay để lại ở phía dưới thư.
Việc làm của một tay mơ.
Người đàn ông giấu mặt sau những chuyện ngờ nghệch đó tên là Alphonse Gurik. Hắn không có chỗ ở nhất định và là một gã chuyên đi biểu tình.
Scully theo dõi hắn lại gần các thùng thư. Hắn đúng là một tên ngớ ngẩn, nhưng đầy nhiệt tình, và dĩ nhiên, không có tay nghề.
Trong khi ấy, lúc quan sát những phế tích của DyMar, Scully có thể xác quyết rằng cuộc tấn công đã được chuẩn bị chu đáo và được thực hiện bởi những phần tử chuyên nghiệp.
Gurik quay số để mở ngăn 3733, rồi lấy ra một chồng thư. Scully ra hiệu cho Mulder. Họ cùng nhảy bổ tới và dí vào mũi hắn huy hiệu FBI.
- Alphonse Gurik, anh đã bị bắt – Scully nói với giọng đanh thép.
Gurik để rơi những lá thư xuống đất, giơ tay lên và run lẩy bẩy:
- Tôi không làm gì cả. Tôi vô tội. Các người không có quyền làm vậy. Các người là đồ phát xít.
Mọi người nhìn họ.
Scully rút trong túi ra một tờ giấy.
- Đây là lệnh bắt giữ anh, tác giả của bức thư yêu sách phá hoại phòng thí nghiệm của trung tâm nghiên cứu DyMar. Có hai người chết trong vụ này.
Mặt Gurik trắng bệch.
- Tôi… nhưng… nhưng…
Mulder tra còng vào tay hắn, còn Scully thì lùi lại phía sau để phòng ngừa hắn giở trò.
Theo hồ sơ, Gurik đã bị tống giam bảy lần, vì những hành động phá rối: ném đá, biểu tình đòi cái này cái nọ, vẽ bậy bạ trên tường các công ty đa quốc gia mà hắn không thích…
Mulder đẩy hắn ra bên ngoài trong khi Scully nhặt những bức thư của hắn. Ba mươi giây sau khi ra khỏi cửa bưu điện, hắn bắt đầu van xin:
- Vâng, tôi đã gửi thư, tôi thú nhận! Nhưng tôi không bao giờ ném bom cháy vào DyMar, không bao giờ giết một ai, không can dự vào những vụ nổ. Tôi vô tội!
Scully tin ở hắn. Nhìn phong cách của hắn, nàng cũng biết hắn không có đủ khả năng làm những việc ấy.
- Cuộc biểu tình được hình thành ra sao? Scully hỏi.
- Người ta đến từ nhiều phong trào khác nhau với mục đích giải phóng những con vật của phòng thí nghiệm. Nhưng có một gã tập hợp chúng tôi. Hắn bảo hắn sẽ gửi thư cho nhà báo sau khi biểu tình. Nhưng hắn không làm. Sự thật, hắn đã chuồn mất. Tôi cho rằng hắn sợ. Thế là tôi quyết định tự đảm nhiệm việc yêu sách. Cần phải có người đứng ra làm chứ, phải không? Người ta có quyền biết phòng thí nghiệm đã hành hạ những con vật như thế nào!
Họ đi ra phố. Gurik buồn rầu nhìn cái xe tải cũ kỹ đã tróc hết sơn đậu ở vỉa hè.
- Xe của anh đấy à? Mulder hỏi. Anh đậu xe ở nơi dành cho khách bộ hành. Vi phạm luật giao thông! Sẽ bị rút bằng lái.
Họ lại gần xe. Trong xe đầy truyền đơn, chống đủ mọi thứ: chống thử hạt nhân, chống ô nhiễm môi trường…
Mulder đẩy Gurik vào thành xe, hỏi:
- Anh thú nhận rằng anh đã tham gia biểu tình?
- Phải, phải, tôi thú nhận! Nhưng có biết bao nhiêu người, đâu phải mình tôi. Tôi không đốt phá, cũng chẳng ném đá. Tôi chỉ giơ cao biểu ngữ và hò hét cùng với những người khác. Tôi không biết kẻ nào đã ném bom cháy, nhưng không phải tôi.
- Ai đứng đằng sau nhóm “Giải phóng tức khắc”?
- Chẳng có ai. Đó là cái tên do tôi nghĩ ra. Trong quá khứ, tôi đã bịa ra nhiều nhóm, nhiều hội. Tối hôm đó có đông người tham dự nên cũng phải đặt cho nó một cái tên.
- Ai tổ chức cuộc biểu tình trước trung tâm DyMar – tới lượt Scully mở cuộc tấn công.
- Tôi không biết. Đông lắm, những hội, những nhóm, người ta đã có những cuộc tiếp xúc. Giữa họ luôn không có sự nhất trí, nhưng người ta biết sát cánh bên nhau khi có vấn đề quan trọng.
Cuộc biểu tình chống DyMar được hình thành trong thời gian rất ngắn. Nó gồm những thành phần của những tổ chức khác nhau; họ không biết rõ tại sao họ đã tụ tập ở đấy, thế rồi mọi người biến đi đâu mất hút. Những người chủ trương vụ này xứng đáng là bậc thầy: mọi người tưởng rằng tới đó theo sự yêu cầu của những người khác. Giỏi thiệt! Một việc làm tuyệt vời!
Scully nghĩ rằng anh bạn đồng nghiệp đã có lý khi anh ta nhìn thấy một âm mưu đen tối, trong vụ này, và cô dịu dàng hỏi:
- Alphonse, anh có thể giúp đỡ chúng tôi, hãy nói cho chúng tôi biết họ đã dẫn Patricia và Jody đi đâu?
Gurik tỏ ra không hiểu”
- Ai?
- Vợ và đứa con trai của một trong những nhà bác học mà các người đã giết trong vụ hỏa hoạn ở DyMar.
- Tôi không biết cô nói gì. Tôi chưa bao giờ nghe thấy những tên ấy, vả lại, tôi không giết ai cả.
- Trong lúc các người phá phách DyMar, vợ và con trai của Kennessy đã bị bắt có tại nhà của họ ở Tigard. Tôi tin chắc anh là người chịu trách nhiệm về hành động bỉ ổi đó. Tôi muốn biết tên những tòng phạm của anh.
Mulder biết rõ Gurik không can dự gì vào vụ mất tích này, nhưng nếu hắn hoảng sợ, hắn có thể cung khai một vài chi tiết có lợi cho cuộc điều tra.
- Nhưng… tôi vừa nói với ông rằng tôi chỉ hò hét trước trung tâm DyMar. Tôi không quen những người làm việc ở đó. Tôi đi biểu tình là theo nguyên tắc, để bảo vệ những tư tưởng của tôi.
Scully quay về phía Mulder, khẽ nói:
- Cần phải tìm ra Patricia và Jody. Sẽ không mấy khó khăn để tìm thấy đứa bé. Đừng quên rằng nó phải được tiếp tục cuộc trị liệu chống ung thư.
CAO ỐC FEDERAL 313 THỊ TRẤN CRYSTAL, VIRGINIA
Thứ tư, 11 giờ 30
Một văn phòng vắng người, vài vật dụng bằng gỗ do nhà nước cung cấp. Adam Lentz đang xem xét một băng video cassette. Nó được đưa về từ những phế tích của DyMar và hãy còn đượm mùi khói. Adam hấp tấp muốn soi nó bằng máy.
Tên của Adam không xuất hiện trên cửa văn phòng cũng chẳng có ở trên bàn. Hắn không cần cái bề ngoài lộng lẫy. Hắn có đủ các chức tước để có thể đi đâu cũng lọt. Hắn chọn sở làm và cấp bậc của hắn tùy theo sứ mạng mà hắn phải hoàn thành. Hắn giữ một vai trò luôn thay đổi. Chỉ một điều đáng kể: thành công trong sứ mạng mà người ta giao cho hắn.
Căn phòng không có cửa sổ, cái đó muốn nói rằng không có ai có thể dò xét hắn. Văn phòng của hắn tọa lạc trong một tòa nhà giống như tất cả các tòa nhà công của thành phố. Không có một dấu hiệu đặc biệt nào để phân biệt với những cái khác.
Một trong những sứ mạng của Adam: Giám sát những nghiên cứu của Kennessy ở DyMar, rồi những nhà nghiên cứu khác của NASA, của Viện Kỹ thuật California, của Trung tâm nghiên cứu phân tử quốc gia, và ngay cả ở Nhật, trong những phòng thí nghiệm của Mitsubishi. Nhưng vấn đề của Kennessy là ưu tiên hàng đầu. Adam biết rằng, chỉ có hắn mới khám phá được những việc làm của Kennessy. Hắn luôn bám sát những nghiên cứu của ông ta, nhưng ông ta đã thực hiện được những bước tiến khiến hắn không thể kiểm soát nổi.
Adam cầm cuộn băng lên. Hắn hy vọng những ngọn lửa chưa đụng tới nó. Thuộc hạ của hắn đã tỏ ra rất cừ khôi: họ biến DyMar thành một đống hoang tàn, thiêu hủy tất cả những tài liệu nguy hại, và họ đã khám phá ra cái két sắt của Kennessy, trong đó họ tìm thấy băng cassette này.
Hắn đứng dậy, đi ra khóa cửa, rồi lấy ra một máy liên hợp T.V – máy ghi hình từ để lên bàn. Trước khi tắt đèn, hắn cho cassette vào trong máy. Hắn biết nội dung, nhưng chưa coi hình.
Một hình ảnh xuất hiện trên màn hình.
Một con chó Labrador đen đi vòng tròn trong chuồng. Nó vẫy đuôi như thể hy vọng được người ta mở cửa cho nó ra. Rồi Kennessy bắt đầu hiện ra.
- Tốt, ngoan nào, Vador? Hãy bình tĩnh một chút chứ. Ngồi xuống, ngồi xuống.
Nhà khoa học giơ tay vuốt tóc trong lúc nhìn vào camera. Ông ta đổ mồ hôi.
Cuộn băng này được dùng để thuyết phục những nhân vật cao cấp hãy còn ngờ vực việc làm của ông. Kennessy muốn người ta biết rằng ông đã thành công. Nhưng có điều ông chưa biết, chính sự thành công ấy đã dẫn ông tới cái chết. Những kẻ quyền thế đỡ đầu cho ông có bao giờ lại nghĩ rằng ông sẽ thành công, có ngờ đâu… Thành thử các ngài ấy sợ.
Kennessy lau ống kính. Con chó vẫy đuôi. Bên cạnh ông là Jeremy Dorman, chờ đợi lệnh của ông. Cảnh tượng ấy không khác gì như Frankenstain, viên phụ tá Igor của lão ta và con quái vật…
Kennessy bắt đầu nói. Giọng ông khàn khàn.
- O.K. thưa quí bà và quí ông, tối nay quí ngài sẽ được chứng kiến một cảnh tượng mà quí vị chắc sẽ khó quên.
Tôi đã gửi tới các ngài các báo cáo và kết quả của những cuộc thí nghiệm của tôi. Nhưng hình như người ta không được, hoặc ít ra thì cũng không hiểu. Tôi rất buồn khi người ta chôn vùi công trình của tôi dưới hàng tấn hồ sơ. Tôi nghĩ rằng các ngài xem video chắc sẽ thích hơn. Trong lúc ngồi uống cà phê, các ngài sẽ có thể xem nó. Kết quả của những cuộc thí nghiệm của tôi sẽ làm thay đổi bộ mặt của thế giới, chuyện đó xứng đáng để các ngài bỏ ra 5 phút trong số thì giờ “vàng ngọc” của các ngài, có phải không ạ?
Adam Lentz nhướng mày: Ồ không, người ta không quên đọc các báo cáo của nhà bác học. Trái lại, người ta đã nghiên cứu chúng với một sự chú trọng cực kỳ.
Trên màn hình, Kennessy nổi đóa.
- Các ngài, những kẻ quan liêu, các ngài chỉ biết tài trợ mà chẳng hiểu gì cả.
Ông ngần ngừ như thể hối tiếc vì đã nặng lời. Rồi quay về phía người phụ tá.
- Dorman, anh đã sẵn sàng chưa?
Người phụ tá của ông hình như rất bối rối. Hắn đặt một tay lên những chấn song của cái chuồng để có một chỗ dựa. Con chó liếm những ngón tay của hắn. Dorman giật nẩy người và lùi lại như bị chó cắn.
- Jeremy!
- Hơ… David, ông có chắc mình muốn làm chuyện đó không?
Kennessy thở dài.
- Không, thật ra tôi muốn buông xuôi tất cả, nhìn Jody chết mà chẳng làm gì được và trở thành một anh thư ký quèn.
Dorman ra dấu bảo ông bình tĩnh lại.
- O.K, chỉ hỏi vậy thôi?
Kennessy khen ngợi con chó. Nó ngồi trong chuồng trìu mến nhìn ông.
- Vador ngoan lắm!
Jeremy Dorman biến mất trong chốc lát, rồi trở lại với khẩu Smith Wesson cỡ lớn. Adam biết Kennessy đã mua nó vài ngày trước đó, và trả bằng tiền mặt.
- Điều mà các ngài sắp coi đây sẽ khiến các ngài bị sốc ghê gớm. Tôi xin phép được khẳng định rằng chúng tôi không sử dụng xảo thuật nào… rồi các ngài sẽ biết tôi muốn nói gì.
Kennessy quay về phía người bạn đồng nghiệp.
- Jeremy, anh có thể nổ súng.
Viên phụ tá từ từ chĩa khẩu súng vào con chó đang nhìn hắn. Vador cảm thấy một cái gì đó không bình thương. Nó đứng dậy, lùi lại và nhe răng gầm gừ.
Jeremy bắn hai lần. Hai viên đạn bắn trúng con chó và hất nó vào tường. Một viên trúng ngực còn viên kia làm vỡ sống lưng. Máu đỏ chảy trên bộ lông đen tuyền của nó. Jeremy lùi lại nhìn khẩu súng, ngỡ ngàng.
- Trời ơi! David, hội bảo vệ súc vật sẽ giết chúng ta mất!
Kennessy tiến ra trước camera, nói với một giọng nghiêm túc:
- Những khám phá của tôi về vi kỹ thuật sẽ được ứng dụng vào y khoa. Nền tảng của nhiều công ty sẽ bị xáo trộn.
Adam không thể ngăn cản được sự thán phục Kennessy: ông ta có vẻ như đang đọc một bài diễn văn để bảo vệ những ý kiến của ông, trong khi con Vador trung thành rên rỉ trên đất, đằng sau ông ta.
Vâng, Kennessy có lý khi nói rằng vi kỹ thuật sẽ làm “xáo trộn” thế giới. Chính vì thế Adam phải kiểm soát kỹ thuật ấy, bằng bất cứ giá nào.
Nhà khoa học trên màn ảnh quay về phía con chó.
- Sau một chấn thương nặng như vây, việc đầu tiên mà những vi sinh vật sẽ làm là vô hiệu hóa những trung tâm quản lý sự đau đớn trong não bộ con vật.
Vador thình lình đứng dậy. Nó có vẻ hoàn toàn ngơ ngác và thè lưỡi ra. Hình như nó không biết thân thể nó bị thủng hai lỗ to tướng. Nó khuỵu xuống. Nhưng cuối cùng nó ngồi dậy được, duỗi chân ra rồi bất động. Người ta có thể ngỡ nó ngủ.
- Những bộ máy đang đo lường phạm vi của những tổn hại. Chúng có thể thông báo cho nhau và kết hợp với nhau để chạy chữa cho con vật.
Ông ta bước vào trong chuồng và đặt tay lên đầu con chó.
- Nhiệt độ của nó bắt đầu tăng, cái đó là những vi phân tử đã sản sinh ra nhiệt. Máu con Vador không còn chảy nữa, hãy cho camera lại gần đây, tôi muốn người ta nhìn thấy cận cảnh.
Jeremy tuân theo. Kennessy im lặng, bởi những hình ảnh tự nó đã nói.
- Một chấn thương đã định vị như trường hợp này sẽ dễ dàng chăm sóc hơn một chứng bệnh len lỏi khắp nơi như ung thư. Những bộ máy tí hon sẽ tự lập trình với chức năng A.D.N của con chó ấy và sẽ sửa chữa những chỗ cần thiết. Trong một thời gian không lâu, công việc ấy sẽ được kết thúc. Nhưng để chữa một bệnh nhân bị ung thư mang những khối u ở nhiều nơi, cần phải hàng tháng. Với con Vador thì ngược lại…
Ông tránh ra một bên để camera có thể thấy nó.
- … Nó sẽ lại bắt đầu săn đuổi những con mèo ở trong vườn ngay từ sáng mai!
Jeremy hình như vẫn còn khiếp hãi. Hắn lắp bắp:
- David! Nếu người ta biết… chúng ta sẽ mất hết!
- Tôi không nghĩ thế. David cười lớn. Tôi sẵn sàng cá với anh một hộp bích qui cho con Vador, rằng sự việc sẽ ngược lại.
Một giờ sau, conVador đã ngồi chồm hỗm, tươi tỉnh và sảng khoái. Nõ rũ lông rồi sủa. Kennessy mở cửa chuồng và con vật vẫy đuôi mừng rỡ như thể không có chuyện gì xảy ra. Hết phim.
Adam đờ người ra. Công việc được thực hiện bởi ê kíp của DyMar, nguy hiểm nhiều hơn hắn tưởng! Nếu một khám phá như thế mà không giữ bí mật hoặc đem hủy đi, thì hậu quả sẽ khó lường!
Hắn đứng dậy và lấy cuộn băng ra khỏi máy. Cần phải thủ tiêu tất cả những chứng cứ. Bây giờ hắn mới hiểu cấp trên của hắn đã có lý. Băng video và những tài liệu khác để trong két sắt vẫn còn nguyên sau vụ cháy. May mắn thay, các thuộc hạ của hắn đã lấy được hết.
Adam gãi cằm: câu chuyện của con chó đã giải thích tất cả. Vì vậy người ta hiểu tại sao Kennessy lại hốt hoảng điện thoại về nhà, trong lúc DyMar bị tấn công – dĩ nhiên tất cả những đường dây của DyMar đều bị nghe lén.
Nhà bác học không để cho vợ nói nửa lời. Đằng sau ông, người ta nghe thấy những tiếng nổ, tiếng kêu. Ông hét vào máy:
- Patricia, hãy đưa Jody và Vador đi ngay lập tức. Đừng chậm một giây. Những cơn ác mộng ghê gớm của chúng ta đang trở thành hiện thực. Phải trốn đi. Anh dang bị bao vây ở DyMar. Em đừng để cho họ bắt. Trốn đi ngay cùng với con trai của chúng ta và con Vador!
Sự liên lạc bị ngừng trước khi Patricia kịp trả lời. Nhưng bà đã vâng theo lời chồng. Khi người của đội đặc nhiệm tới nhà riêng của Kennessy, họ chẳng thấy ai, kể cả con chó mà người ta nhìn thấy trên video.
Adam không hài lòng cho lắm. Lúc đầu, hắn phái thuộc hạ đến nhà bà Kennessy, bởi vì hắn nghĩ rằng bà có trong tay những cuốn sổ ghi chép công việc của chồng bà.
Sai lầm lớn. Nhân vật đáng quan tâm nhất và nguy hiểm nhất trong gia đình Kennessy không ai khác ngoài con Labrador. Làm sao có thể đoán ra được chuyện đó?
Adam thở dài để lấy lại sự bình tĩnh, và định nhấc máy điện thoại. Nhưng hắn nghĩ lại: không, lỗi này nặng quá, không thể tha thứ được. Không nên để cho cấp trên biết. Chính hắn phải tự sửa sai.
Sẽ không còn một tí gì về DyMar nữa. Không còn một tài liệu, không còn một chứng cứ nào nữa! Nhưng Adam chưa kết thúc sứ mạng của mình. Hắn hãy còn phải tìm ra một người đàn bà, một cậu bé và, nhất là con Labrador đen.


- 5 -


GÔI NHÀ CỦA JEREMY DORMAN
Thứ tư, 13 giờ 10
Thấm thoát thế mà đã hơn hai tuần trôi qua kể từ khi hai mẹ con Patricia về trú ngụ tại ngôi nhà của Jeremy. Patricia đã phải giải thích cho Jody biết tại sao hai mẹ con lại phải ẩn náu ở nơi sơn cùng thủy tận này, trong lúc chờ đợi người ta tìm thủ phạm vụ phá hoại trung tâm DyMar.
Kennessy đã phạm một sai lầm nghiêm trọng khi muốn công bố phát minh của mình. Nhưng Patricia đã linh cảm thấy những sự đe dọa của đám đông trong bóng tối. Phản ứng của chúng đã dữ dội hơn và nhanh chóng hơn phản ứng của nhóm chống đối cuộc nghiên cứu di truyền học.
Patricia nhớ lại cuộc tranh cãi giữa mình và chồng về vấn đề ấy.
- Bộ anh tưởng chỉ có mình anh hiểu dược tầm quan trọng của vi kỹ thuật?
- Sẽ là một tin sốt dẻo khi được biết thiên hạ không đến nỗi dốt đặc cán thuổng như người ta nghĩ.
Nhưng có điều bà biết chắc: không bao giờ có nhóm sinh thái lại hành động thô bạo như vậy. Thế thì ai cầm đầu vụ tấn công? Kẻ nào đứng đằng sau những người biểu tình? Với một thủ đoạn khôn khéo cực kỳ, người ta đã tập hợp được những thành phần hỗn tạp nhất.
Và David đã chết tại trung tâm. Ông chỉ còn kịp báo cho vợ con chạy trốn. Patricia thu xếp một vài thứ cho vào trong vali rồi rời khỏi Tagard. Bà đã thay đổi bảng số xe nhiều lần trên lộ trình. Trước nửa đêm, lấy thẻ tín dụng, bà rút tối đa số tiền được cho phép tiêu trong một hai ngày tại một máy phân phối tự động ở Eugene. Và bà chờ 15 phút sau, khi ngày tháng đã thay đổi, lại tới rút tiền ở một máy phân phối khác. Như vậy là đã có một số tiền lớn trong tay.
Từ đó hai mẹ con Patricia sống tương đối yên ổn trong ngôi nhà của Jeremy. Sẽ chẳng có ai ngó ngàng tới vùng heo hút này. Nhưng Vador biến đâu mất? Con chó là niềm vui duy nhất của Jody. Patricia hy vọng nó sẽ trở về. Nó là một con vật trung thành. Nhưng bà đã tháo cái cổ dề và bảng tên của nó. Nếu người ta có bắt được nó, người ta cũng chẳng biết chủ nó là ai.
Jody chấp nhận hoàn cảnh với sự thản nhiên và chờ đợi anh bạn bốn chân trở về. Chú bé đã lấy lại được thể trọng và tóc cũng đã mọc. Nó bắt đầu giống như những đứa trẻ khác.
Sau khi chán những trò chơi lắp ráp, Jody đi ra phía cửa sổ để xem con chó có xuất hiện ở bìa rừng không. Bất chợt nó kêu lên:
- Mẹ ơi, nó đã trở về!
Patricia hơi phấp phỏng vì sợ rằng đã có người thấy nó và đuổi theo.
Nhưng chỉ có một mình Vador mà thôi. Từ xa, nó phóng tới, vẫy đuôi lia lịa. Đứa bé vội vàng chạy ra khỏi nhà để đón. Sợ Jody ngã, Patricia kêu lên:
- Jody, coi chừng té!
Nếu bị thương, nó phải đi khám bác sĩ, rồi lại phải đi trốn một lần nữa, để tìm một chỗ ẩn nấp khác.
Nhưng Jody không sao hết. Con Vador vừa sủa vừa chạy chung quanh Jody và liếm tay đứa bé để biểu lộ sự mến thương.
- Mẹ đã nói với con rồi mà. Nó sẽ trở về.
Patricia cúi xuống vuốt ve con vật. Con Vador không hề hấn gì, ngay một vết xước cũng không có. Tại sao nó không về sớm hơn?
- Nếu mày có thể kể cho chúng tao nghe mày đã nhìn thấy gì và làm những gì? Patricia nói với con vật.
BỆNH VIỆN THÚ Y HUGHART – THỊ TRẤN LINCOLN, OREGON
Thứ tư, 17 giờ 01
Xe vừa xịch đỗ trước cổng bệnh viện Hughart, Scully đã nghe thấy tiếng chó sủa, mèo kêu ầm ĩ. Mulder bước xuống mở cửa xe cho người bạn gái. Các chuyên viên của Trung tâm dịch tễ quốc gia đã phân tích mẫu chất lỏng nhầy do Scully trích trên cơ thể người gác dan trong lúc cô thực hiện cuộc giải phẫu. Họ nhận thấy có một trường hợp tương tự trong hồ sơ của họ, một trường hợp mới đây cũng xảy ra tương tự tại Oregon: bác sĩ Hughart đã điều trị một con Labrador đen bị nhiễm một chất y hệt như vậy.
Hay tin này, Mulder muốn nhảy lên trần nhà: họ biết có thể tìm hai mẹ con Patricia ở đâu. Con chó không thể xa những người chủ của nó. Chắc nó chỉ quanh quẩn ở vùng này thôi. Họ tiến về phía cô nhân viên tiếp khách và tự giới thiệu:
- Chúng tôi là thành viên của F.B.I., Fox Mulder và Dana Scully. Chúng tôi muốn gặp bác sĩ Hughart. Chúng tôi tới để hỏi về con chó mà bác sĩ Hughart đã điều trị cách đây hai ngày. Và ông ấy đã gửi một bản báo cáo cho C.D.C.
Giây lát sau, vị thú y già xuất hiện. Ông ta ra dấu mời họ vào phòng mạch.
- Xin mời… xin mời…
Căn phòng sặc mùi thuốc tẩy uế. Bàn phẫu bằng kim loại để ở phía giữa. Những cái tủ kính la liệt khắp nơi, bên trong đựng chai lọ, ống chích.
- Tôi có thể giúp được gì cho các bạn. Ông mỉm cười hỏi. Tôi nghĩ rằng các bạn tới về cái báo cáo mà tôi đã gửi cho C.D.C. Tại sao vụ việc lại chuyển tới F.B.I.? Có phải do sự nguy hiểm về dịch bệnh không?
Mulder đưa cho ông ta coi một tấm hình.
- Chúng tôi tìm hai người này, chúng tôi e rằng họ đã bị bắt cóc. Con chó ấy là của họ. Ông có thể cho chúng tôi biết ai đã đưa con vật tới?
- Những du khách lái xe đã đụng vào nó rồi đưa nó tới đây. Đêm tối và trời mưa. Tôi trông thấy những đứa trẻ ở trong xe. Người ta vội vã chuồn thẳng. Nhưng tôi chấp nhận chăm sóc con vật mặc dù chẳng có một hy vọng nào cứu được nó. Nhưng con Labrador ấy thì… lại khác.
- Ông có thể nói rõ hơn? Scully hỏi.
- Nó bị chấn thương nặng. Sườn bị gẫy, cột sống nhiều chỗ bị dập, cơ quan nội tạng cũng bị thương. Chắc chắn nó sẽ chết.
Ông dựa lưng vào bàn phẫu trước khi tiếp lời:
- Tôi đã băng bó cho nó nhưng tôi biết sẽ vô ích. Con chó ấy nóng hổi. Tôi chưa bao giờ thấy một con vật có nhiệt độ cao đến như thế. Vì vậy tôi đã lấy mẫu máu của nó. Tôi thú nhận tôi không chờ đợi để tìm thấy… cái mà tôi đã tìm thấy.
- Trong trường hợp bị chấn thương bởi tai nạn xe cộ – Scully giải thích cho Mulder hiểu – nhiệt độ của cơ thể không thể tăng lên, cho dù con vật bị hôn mê.
- Khi tôi đi tới kết luận rằng nó không còn một hy vọng sống sót nào nữa, tôi đã chích cho nó một mũi penthio-barbital de sodium. Đó là một phương pháp êm dịu nhất để chấm dứt sự đau đớn của con vật.
- Chúng tôi có thể coi cái xác của con vật ấy?
- Chuyện đó không thể được.
- Tại sao?
- Tôi đang xét nghiệm máu trong phòng thí nghiệm. Chợt có một tiếng động. Tôi chay ra coi thì thấy con chó chạy vụt đi. Dù chân trước đã bị bẫy và sườn bị dập hàng trăm mảnh.
- Có phải ông muốn làm cho chúng tôi tin rằng một con chó bị xe cán gần chết, rồi lại được ông chích cho một mũi “ân huệ”, vậy mà còn có thể nhảy từ cái bàn giải phẫu này, để biến đi?
Mulder cũng phụ họa:
- Nó phải có một sức đề kháng không thể tưởng tượng.
Ông đốc tờ già bực mình, lầu bầu:
- Tôi không biết giải thích như thế nào về những chuyện đã xảy ra, nhưng chính mắt tôi đã thấy. Tôi đã bỏ ra hàng giờ để tìm nó trong khu phố. Tôi nghĩ rằng nó đã chết ở một xó xỉnh nào đấy, gần đây thôi. Nhưng tuyệt vô âm tín. Dân cư trong thị trấn này hay ngồi lê đôi mách. Nếu thấy con chó chết, họ sẽ đồn đãi ngay.
- Ông còn giữ mẫu máu không? Scully hỏi. Nếu có, làm ơn cho chúng tôi xem qua.
- Dĩ nhiên, hãy theo tôi.
Ông Hughart lấy từ trong tủ ra một bản kính trên đó có một vết màu nâu. Ông đặt nó dưới kính hiển vi, điều chỉnh đường ngắm rồi ra hiệu cho Scully tới quan sát.
- Khi xem xét mẫu trích này lần đầu tiên, Hughart giải thích, tôi thấy có những phần tử óng ánh bạc ấy… động đậy. Tôi chưa bao giờ thấy hiện tượng ấy cho nên đã báo cáo với C.D.C.
- Và trung tâm đã tiếp xúc với chúng tôi… Scully nhìn máu của con chó, khẽ nói.
Những vật màu kim loại ấy mang những hình kỷ hà không phải là những sinh vật bình thường. Scully cũng vậy, cô chưa bao giờ thấy hiện tượng ấy.
- Cách đây hai ngày, những con vật tí xíu ấy chạy tới chạy lui như những… cái máy. Bây giờ chúng không cử động nữa. Chúng đã chết hoặc đang nằm ngủ, Hughart nói.
- Scully chú ý xem xét những vật kỳ lạ ấy, nhưng cô vẫn không hiểu chúng là cái quái gì. Cô nhìn ông đốc tờ.
- Chúng tôi cảm ơn bác sĩ đã giúp đỡ chúng tôi. Nếu ông nhớ lại một điều gì hoặc nếu người chủ của con chó xuất hiện, làm ơn cho chúng tôi biết ngay. Chúng tôi phải tìm ra họ. Đứa bé mà ông thấy trong hình bị bệnh ung thư. Nó cần phải được điều trị.
Chủ nhân tiễn khách ra tới cửa.
- Scully, em có nghĩ rằng đó là vi kỹ thuật không? Mulder nói với cô sau khi đã yên vị trong xe.
- Em nhìn nhận thứ máy ấy chứa đựng những phân tử kỳ lạ, nhưng…
- Nhưng nếu Kennessy thử nghiệm những cái máy nhỏ xíu ấy trên con chó thì, ông rất có thể lập trình để chúng biết cách “chạy chữa” con vật trong trường hợp nó bị thương hoặc bị bệnh? Điều đó giải thích được rằng tại sao nó lại phục hồi sức khỏe sau những chấn thương nặng và đề kháng được chất kịch độc mà Hughart đã chích cho nó.
- Anh cho rằng Kennessy đã thử nghiệm những vi sinh vật của ông trên con chó và người gác dan đã bị lây nhiễm bởi những mẫu còn sót lại trên phế tích của phòng thí nghiệm?
Mulder nổ máy cho xe chạy rồi đáp:
- Đó chính là điều anh lo ngại. Nếu những vật ấy ở trong thiên nhiên và có khả năng lây nhiễm từ loài vật này sang loài vật khác thì sẽ có một bệnh dịch tiềm tàng lan tràn trong toàn liên bang.
- Và nếu chúng lây sang người… Ôi! Lạy Chúa! Chúng ta phải tìm ra con chó ấy!
BỆNH VIỆN PITIE – NHÀ XÁC
Thứ hai, 2 giờ sáng
Thiên hạ cứ nghĩ rằng đi lang thang trong nhà xác vào lúc đêm hôm quả là rùng rợn. Nhưng với Edmond thì ngược lại. Anh thấy sự yên ắng và ánh sáng êm dịu rất thuận tiện cho việc nghiên cứu. Trong thời gian trực gác, anh đọc những cuốn sách chuyên đề và tiểu thuyết trinh thám, rồi cả chuyện ma quỉ như Dracula.
Đang cắm cúi đọc, Edmond chợt cảm thấy có một cái gì đó động đậy! Anh ngẩng đầu lên, đảo mắt nhìn chung quanh. Chẳng có gì hết. Phía đầu phòng, một ngọn đèn neon nhấp nháy. Cần phải báo cho ê kíp bảo trì để họ thay một cái đèn khác. Edmond lại trở về với những trang sách.
Lại có một tiếng động. Lần này thì anh nghe thấy rõ ràng. Edmond đứng dậy. Làm việc lâu năm tại đây, anh biết rõ từng âm thanh gây ra bởi những bộ máy nối với phòng này.
Một tiếng động khác! Người ta đập một cái gì trên kim loại. Edmond cố lắng tai nghe để xem nó đến từ đâu đấy.
Tiếng đập ngày càng mạnh. Không thể chần chừ lâu hơn nữa: tiếng động đến từ một ngăn của tủ lạnh đựng xác chết! Một kẻ nào đó ở bên trong, đập lia lịa.
Bất đắc dĩ, Edmond lùi lại. Tại sao một người chết lại có thể gõ vào những cái thành của tủ lạnh? Dĩ nhiên, anh đã đọc những truyện nói về những người bị chôn sống. Anh cũng biết những tin đồn lan truyền trong số các sinh viên y khoa. Theo họ, đã có những người chưa chết mới chỉ hôn mê bị tống vào máy đông lạnh, và những con người khốn khổ ấy tỉnh dậy rồi bị chết bởi cái lạnh khủng khiếp. Người ta còn nêu ra những chi tiết: đó là trường hợp ngưng trệ chức năng sống, giống như là chết, hoặc động kinh hoặc hôn mê vì bệnh tiểu đường!
Song Edmond không bao giờ tin những chuyện tào lao ấy. Chúng chỉ có thể được dùng để hù dọa các nhân viên. Tuy nhiên, rõ ràng anh nghe thấy có những chuyển động ở một trong những cái ngăn của tủ lạnh. Anh tiến lên mấy bước.
- Ê này, có nghe thấy tôi nói không. Đừng động đậy, tôi sẽ để cho ông ra!
Tiếng động lạ phát ra từ ô kéo 4E, nơi ghi chữ “NGUY HIỂM LÂY NHIỄM”, ở đó có cái xác có nhiều bướu và mủ. Trong tình trang ấy, anh ta làm sao sống lại được. Vả lại, anh ta ở trong đó đã hơn một tuần, rồi cô nhân viên của F.B.I. lại giải phẫu anh ta. Anh ta không thể nào còn sống.
- Có ai không? Edmond kêu lên.
Tiếng động ngừng. Im lặng được giây lát, tiếng động lại vang lên trong căn phòng, như có tiếng bước chân rậm rịch.
Nếu đây là một chuyện đùa bỡn, Edmond sẽ lột mặt nạ thủ phạm và đưa hắn ra hội đồng kỷ luật. Một vài sinh viên thực tập ở bệnh viện đã từng trêu chọc anh bằng cái trò tương tự.
Trong khi chở đợi, Edmond thấy cũng nên kiểm soát xem trong ô kéo có người nào đang lâm nguy không. Anh nghiêng mình về phía ô 4E, lớn tiếng:
- Ông ở trong đó hả? Tôi sẽ mở cho ông ra. Đừng hoảng sợ!
Edmond thu hết can đảm để kéo cái ngăn, thì thấy một vật gì đang cố sức chui ra, một vật gì kinh tởm. Anh khiếp hãi kêu thét lên và lập tức đẩy cái ngăn vào. Vẫn còn một vật gì mềm mại như một ngọn roi lòi ra. Không phải là một chi của con người mà là một xúc tu.
Những chi khác – hoặc những xúc tu khác – kết hợp với cái đầu tiên để đạp vào không khí và cố gắng tóm lấy Edmond. Anh tập trung sức lực đóng chặt các ngăn lại, nhưng có hai cái xúc tu bị kẹt ở bên ngoài vẫn còn vùng vẫy. Cuối cùng, chúng cũng tự giải thoát và trở vào trong ô kéo.
Run lẩy bẩy nhưng sung sướng vì đã loại trừ được con quái vật, Edmond kiểm soát lại cái ngăn xem nó đã được đóng chặt chưa. Rồi anh lùi lại và ngắm nghía cái ngăn 4E với một sự kinh tởm.
Con vật ở bên trong tiếp tục ngọ nguậy.
- Nằm yên! Edmond kêu lên.
Hoảng hốt, Edmond chạy tới chỗ kiểm soát phòng lạnh. Anh điều chỉnh nhiệt độ tới mức thấp nhất. Đó là cách tốt nhất để làm đông lạnh con vật. Tiếng động ngưng hẳn khi khí lạnh khủng khiếp lưu thông trong các ô kéo. Edmond chờ đợi, trong lúc quan sát hàn thử biểu bắt đầu yên vị ở mức thấp của thang chia độ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu con quái vật chui ra khỏi ô kéo. Chắc chắn anh sẽ bị nó ăn thịt, rồi với cái thân hình nhầy nhụa, nó bò lổm ngổm trong các hành lang của bệnh viện để lần lượt ngốn ngấu các bệnh nhân.
Tất cả trở lại sự yên ắng. Con vật không còn lộng hành nữa. Edmond nhả cái cần điều khiển máy lạnh và điện thoại cho phòng trực, để họ khẩn cấp phái các nhân viên bảo vệ tới chỗ anh.
Các nhân viên bảo vệ của bệnh viện Pitié vốn đã quen thuộc với những vụ báo động được gọi là “khẩn cấp”. Đôi khi, thần hồn nát thần tính, chỉ cần nghe thấy một tiếng động khác thường, các nhân viên trực cũng kêu cứu ầm ĩ.
Con vật trong tủ lạnh không còn động đậy nữa. Edmond cho rằng nó đã bị chết vì đông lạnh. Hai nhân viên bảo vệ cười bò ra khi Edmond kể cho họ nghe những sự việc xảy ra và bảo anh ta giàu trí tưởng tượng.
Edmond bỏ ngoài tai những lời chế nhạo của họ. Không bao giờ mở cái ngăn ma quỷ ấy ra nữa dù để chứng tỏ rằng anh đã có lý. Anh chỉ có một ý nghĩ trong đầu: sẽ không lai vãng tới đó lần thứ hai, dù người ta có đến kiểm soát ô kéo 4E.



- 6 -


ẦU ROSS ISLAND – PORTLAND, OREGON
Thứ năm, 7 giờ 18
Jeremy đi từng bước một. Chân hắn không còn đủ sức di chuyển nữa. Cơ thể hắn đổi khác. Bước nọ tiếp nối bước kia, hắn cần phải tiếp tục không ngừng. Hy vọng duy nhất đối với hắn: tìm ra được Patricia và con trai bà ta.
Trời rét buốt, nhưng hắn chẳng cảm thấy gì cả. Hắn cũng không nhận ra rằng quần áo hắn lem luốc, đầy bùn đã khô. Jeremy chợt nổi da gà, không phải do nhiệt độ mà vì sự thay đổi kỳ quái trong cơ thể hắn. Với tư cách nhà khoa học, hắn thấy đó là một hiện tượng cần được nghiên cứu. Nhưng với tư cách nạn nhân, hắn khiếp sợ.
Ngay cả đến nuốt nước bọt cũng khó khăn. Cổ họng đầy chất nhầy, và chất nhầy ấy rỉ ra trên các lỗ chân lông. Răng hắn lung lay. Hắn chỉ còn nhìn thấy mờ mờ nhân ảnh. Nhưng hắn vẫn phải đi tiếp.
Thình lình cột sống của Jeremy xoắn lại như cái đuôi của một con rắn đang nổi giận. Dạ dày của hắn như đi ngược lên phía cuống họng. Hắn tưởng như cơ thể hắn sắp sửa rời ra, tan rã, và trở thành một khối nhựa keo sẽ chảy ra ở trên cầu. Hắn hét lên và giọng hắn lạc đi:
- Khoooooooong!
Với bàn tay nhớp nháp, hắn bám chặt vào thành cầu và với một sức mạnh của ý chí, hắn lấy lại được sự kiểm soát. Sự co giật của hắn. Hắn cần phải làm chủ được mình. Nhưng càng ngày hắn càng thấy khó giữ được sự toàn vẹn của cơ thể. Hình như các cơ quan nội tạng mỗi thứ đều có một đời sống độc lập, và hắn không còn có cách nào để làm cho chúng trở lại nguyên gốc.
Jeremy không thể yêu cầu sự giúp đỡ của một thầy thuốc. Khoa học cổ điển chẳng thể làm gì cho hắn được. Vả chăng, sự rủi ro lại quá lớn. Hắn phải khai tên họ hoặc mô tả bệnh trạng, như vậy hắn sẽ bị để ý.
Không, hắn cần phải chịu đựng sự đau đớn, một mình, bằng mọi giá.
Khi cơn đau trôi qua, Jeremy biết rằng cơ thể hắn sẽ không tan ra trong đêm nay. Một lần nữa, hắn hướng vào mục tiêu của hắn: Jody.
Hắn lấy ở trong túi sơ mi tấm hình mà hắn tìm thấy trong văn phòng của Kennessy: Patricia và bé Jody đang mỉm cười nhìn vào ống kính. Hình ấy được chụp vào thời điểm trước khi Jody bị bệnh bạch cầu và trước khi Kennessy dấn thân vào công cuộc nghiên cứu.
Jeremy nhắm mắt lại.
Hắn chơi thân với Kennessy và được coi như một thành viên trong gia đình ông ấy. Chính vì vậy hắn đã có ý nghĩ về cái nơi Patricia ẩn nấp.
Jeremy đã sống sót trong vụ phá hoại DyMar nhờ vi kỹ thuật do Kennessy phát minh. Bởi một hành động thôi thúc, hắn đã chích vào người một trong những mẫu thử. Các vi sinh vật đã cứu sống hắn… và bây giờ chúng lại sắp sửa phá hoại hắn. Cơ thể bị hư hỏng. Hắn không có cách nào chế ngự được chúng trước khi tìm ra đứa bé.
Rồi Jeremy cũng tới được phía bờ bên kia và đi về hướng tây. Những ngọn đồi mù sương in hình lên phía chân trời.
QUÁN CÀ PHÊ ROSE MARY – THỊ TRẤN LINCOLN, OREGON
Thứ sáu, 8 giờ 51
Mulder ngồi một mình trong một góc phòng trước ly cà phê bốc khói. Cô tiếp viên gọi mọi người là “cưng của em”, len lỏi giữa các bàn. Sáng nay đông khách.
Mulder vừa mới nhận được tại lữ quán anh cư ngụ một gói đồ gửi cho anh nhưng mang tên “ông Jones” do một ông nào đó là “ông Smith” chuyển cho anh.
Cái ông Smith ấy không ai khác ngoài ba chàng trai, Byers, Langley và Frohike. Họ thường cung cấp cho Mulder những thông tin quý giá. Họ không bao giờ đòi hỏi tiền nong. Thích thì làm, không thích nữa thì thôi! Anh không bao giờ dám hỏi họ ai là những thông tín viên của họ. Lần này, ba người ấy gửi cho anh tất cả những gì họ biết về vi kỹ thuật.
Mulder lấy ra từ trong túi: cái máy-ghi-âm-đọc, máy nghe đeo ở tai… và cho máy chạy.
Giọng nói của Frohike:
- Chào Mulder, và chào Scully. Đó, các bạn có ở trước mặt tất cả những gì chúng tôi có thể thu lượm được. Đã có không ít những thông tin về vi kỹ thuật được phổ biến. Nhưng điều đáng sợ là nó mới chỉ là phần nổi của tảng băng! Người ta còn giấu diếm chúng ta cái gì? Nếu vi kỹ thuật chỉ là một phần tư những hứa hẹn của họ, nhân loại sẽ thay đổi như chưa bao giờ diễn ra trước đây!
Mulder biết rõ về con người của Frohike. Anh tưởng rằng chí ít anh cũng mất mươi mười lăm phút để nghe hắn đả kích chính phủ hoặc chửi bới lung tung, nhưng hắn đã hài lòng với một tiếng thở dài và tiếp tục trình bày:
- O.K., Mulder, đây là nội dung. Vi kỹ thuật dùng để chế tạo những bộ máy để trị liệu các tế bào. Chúng có thể thực hiện bất cứ một nhiệm vụ nào và được trang bị một trí thông minh tuyệt vời cho phép chúng biết chúng phải làm gì. Kích thước của chúng chỉ bằng một phần tỉ của mét.
Vi kỹ thuật là kết quả của sự tiểu hình hóa và sự gia tăng hàm lượng của sức mạnh của những “processeur” 0 Frohike nói tiếp. Trong thập niên 50, Richard Feynman, người đoạt giải Nobel đã có ý nghĩ ấy đầu tiên. Ông ta nói với John von Neumann, một trong những nhà bác học đang thực hiện dự án Manhattan là ông dự trù sáng chế những cái máy có khả năng tự sản xuất. Neumann là người chế tạo máy vi tính đầu tiên. Nhưng công chúng lần đầu tiên nghe nói tới vi kỹ thuật là vào năm 1986, khi K. Eric Drexler công bố cuốn sách của ông. Thời điểm ấy, người ta coi ông như một tên khùng. Hôm nay, ông được coi như một nhà dự báo tài giỏi.
Trong lúc nghe băng, Mulder tranh thủ đọc những thông tin cắt từ những bài báo đựng trong phong bì. Các nhà nghiên cứu của trường đại học Madison đã sử dụng kỹ thuật in litho để chế tạo những bộ máy nhỏ bằng một phần mười milimetre. Còn các kỹ sư của I.B.M., ở Almaden, thì đã vẽ được một bản đồ Tây bán cầu của trái đất trên một diện tích nhỏ hơn đường kính của một sợi tóc!
- Những cái máy tí hon ấy – Frohike nói tiếp – chuyển động cực nhanh. Nếu cần, chúng cũng có thể tự sản xuất, để hoàn thành một sứ mạng mau lẹ hơn. Nhưng những cái đó còn chưa phải là lý thú nhất. Những sinh vật tí xíu ấy còn có thể đưa vào trong cơ thể con người để giữ một vai trò tương tự như bạch huyết cầu: chống lại các bệnh tật, giết các virus và vi khuẩn. Chỉ có một chút khác biệt với leucocyte: các ông đốc tờ tí hon có thể phân tích và sửa chữa những A.D.N. của những tế bào sẽ trở thành ung thư. Tôi nghĩ rằng Kennessy đã nghiên cứu loại đó tại DyMar. Tất cả những điều tôi vừa nói hình như đã đầy đủ rồi đấy, có phải? Nhưng chúng ta đừng quên rằng các nhà khoa học cũng như mọi người thôi. Trước khi thành công họ phải có một vài sai lầm. Vấn đề đưa ra là: chúng ta có sẵn sàng nhận một rủi ro như thế không? Hãy thử tưởng tượng chỉ một cái máy tí hon không được trang thiết bị an toàn thoát ra khỏi phòng thí nghiệm. Hãy để cho nó vài tiếng đồn hồ để tự sinh sản, thì bạn sẽ có hàng tỉ quái vật tí hon trên cánh tay. Byes đã làm một con toán: trong vòng 10 giờ, một trong những con vật ghê gớm ấy sẽ cho ra đời 68 tỉ hậu duệ. Chưa đầy hai ngày, những máy ấy sẽ có thể tháo rời hành tinh của chúng ta ra từng phân tử một! Bây giờ thì bạn đã biết tất cả những gì tôi biết. À này… tôi không biết cách làm cho cái cassette này tự hủy trong 19 giây. Vậy, xin phiền bạn đảm trách vụ việc…
Những tài liệu của thông tín viên của anh đã quá rõ ràng. Mulder chợt nhớ lại câu chuyện của một anh chàng phát minh một cái máy thu ánh sáng mặt trời. Nó sẽ khiến cho tất cả các công ty ga và điện trên toàn hành tinh bị phá sản. Thế rồi anh chàng đó bị mất tích một cách bí mật trước khi công bố phát minh của mình. Người ta còn nói đến những chiệc xe đi cả trăm cây số mà chỉ mất chưa đầy nửa lít xăng, rồi những bóng đèn có tuổi thọ 10 năm. Nhưng tất cả những phát minh ấy chưa có cái nào được phổ biến.
BỆNH VIỆN PITIE – NHÀ XÁC
Thứ sáu, 5 giờ 09
Một giờ trước khi mặt trời mọc, có ba người đàn ông ăn mặc sang trọng tới gặp Edmond và tự giới thiệu là các quan chức của C.D.C. Trông họ oai vệ quá nên Edmond không dám hỏi giấy tờ của họ. Anh lắp bắp hỏi:
- C.D.C? Các ngài tới về vấn đề…
Người thứ nhất ngắt lời:
- Chúng tôi cần phải tịch thu toàn bộ các hồ sơ liên quan tới nạn nhân ở trong ô kéo 4E, kể cả kết quả của cuộc phẫu thuật, và những mẫu mã mà ông đã lấy ra từ trên người anh ta. Cần phải khử trùng từng centimeter vuông của những tủ lạnh của nhà xác này. Chúng tôi không muốn có một sự rủi ro nào.
- Rủi ro? Edmond hoảng hốt lặp lại. Các ngài muốn nói rằng… tôi có thể bị lây nhiễm!
- Chuyện đó có thể, thưa ông – người thứ hai nói. Nhưng nếu ông bị lây nhiễm thì đã có những triệu chứng biểu hiện ra rồi và chúng tôi đâu có thể trò chuyện với ông được.
Edmond cảm thấy khó chịu. Người thứ ba phụ họa:
- Ông bạn không có lý do nào để lo ngại, nhưng chúng tôi cần phải hành động gấp. Những hậu quả sẽ khủng khiếp nếu chúng tôi không có những biện pháp kịp thời.
- Ông có thể để mặc chúng tôi – người thứ nhất nói. Bắt đầu từ bây giờ, chúng tôi đảm nhiệm tất cả.
- Nhưng phải có sự đồng ý của cấp trên của tôi!
- Chúng tôi sẽ giải quyết với ông ta – người thứ hai ngắt lời Edmond. Chúng tôi có toàn quyền trong một trường hợp như thế này.
- Vâng, nếu các ngài là người của C.D.C, tôi thiết nghĩ… Thôi được. Dù sao vụ này cũng thật lạ lùng…
Người thứ nhất tiến lên một bước.
- Đúng, thưa ông. Trong vụ này quả là có những điều “kỳ lạ” như bản thân ông đã nhận thấy. Chúng tôi có một ê kíp chuyên viên, họ sẽ tiêu hủy hết những thành phần sinh học trong cái tủ lạnh ấy. Chúng tôi sẽ gắng sức tối đa để khỏi làm phiền tới ông trong thời gian chúng tôi làm việc.
Edmond nhún vai và dẫn họ tới văn phòng của nhà xác. Anh đưa cho họ coi tất cả những gì viết về “khách hàng” của 4E. Ba người của C.D.C có vẻ như muốn ở lại một mình với cái đống giấy tờ ấy. Không muốn gây trở ngại cho họ, Edmond bèn đi xuống căn-tin.
Một giờ sau, khi Edmond trở lại nhà xác thì nhận thấy tất cả đã được khử trùng. Còn ngăn 4E cũng bị gỡ đi. Các giấy tờ liên quan đến nội vụ biến mất. Bây giờ anh mới chợt nhớ rằng mình quên không hỏi tên các thành viên của C.D.C. Làm thế nào để đòi lại các giấy tờ ấy?
MIỀN DUYÊN HẢI OREGON
Thứ sáu, 10 giờ 43
Trong lúc Mulder nhìn ngắm sự hùng vĩ của đại dương nổi sóng, Scully dùng điện thoại di dộng để gọi ông đốc tờ pháp y ở Portland. Có tiếng nói của bác sĩ Quinton ở đầu dây bên kia.
- Cô Scully đó ư? May quá, tôi cũng muốn gặp cô. Có hàng đống chuyện xảy ra tại bệnh viện.
- Ông đã có những kết quả của sự phân tích?
- Vâng, nội vụ ngày càng trở nên kỳ lạ. Có một cái gì đó xẩy ra ở ngăn 4E. Hôm qua, vào lúc nửa đêm, người phụ tá của tôi nghe thấy những tiếng động phát ra từ ngăn ấy. Nên nhớ là nó đã bị niêm phong sau cuộc xét nghiệm của cô.
- Những tiếng động? Không thể được? Cho dù đối tượng không thực sự chết, cuộc phẫu thuật cũng đã giết hắn!
- Tôi hiểu. Edmond báo rằng không phải xác của người gác dan ở trong ngăn 4E mà là một quái vật. Hắn đã đóng chặt cái ngăn lại và hạ nhiệt độ xuống mức thấp nhất để cho cái lạnh giết chết con quái. Nhưng trước khi tôi có đủ thì giờ để phối kiểm câu chuyện quỷ quái do Edmond kể lại, các ông lớn của Trung tâm dịch tễ đã tới đột xuất. Họ mang đi toàn bộ ngăn 4E, và các giấy tờ, báo cáo liên quan đến nội vụ. Rồi họ khử trùng tất cả nhà xác!
- Scully hiểu ngay rằng có chuyện gì mờ ám. Có thể có một thế lực nào đó điều khiển các công việc trong bóng tối. Nàng nói với Quinton:
- Tôi đã tiếp xúc với C.D.C. Tôi đã gửi cho họ một mẫu chất nhầy, và tôi…
Ông đốc tờ ngắt lời nàng:
- Tôi đã điện thoại cho họ, và họ trả lời rằng cái mẫu ấy đã bị thất lạc. Cô có thấy rằng những người ấy hành động hấp tấp quá không? Nếu Edmond nằm mơ, hoặc nếu câu chuyện con quái vật chỉ là một trò đùa bỡn, tại sao họ lại lấy đi tất cả?
- Còn cái mẫu mà tôi đưa cho bác sĩ để phân tích? Công việc đi tới đâu rồi? Scully hỏi.
Đường dây bị nhiễu, nhưng Scully cố gắng lắng nghe.
- Máu chứa đầy những sinh vật nhỏ óng ánh sáng bạc. Tôi đã nghiên cứu chúng rất kỹ. Chúng mang dáng dấp kỷ hà và không giống với bất cứ một cơ thể sống nào mà tôi biết. Tôi nghĩ rằng đó là những cái máy. Cô Scully, cô cũng là thầy thuốc, vậy có bao giờ cô nhìn thấy những sinh vật như thế không?
- Tôi cần phải so sánh những ghi chép của tôi với những ghi chép của anh bạn đồng nghiệp trước khi có thể trả lời. Cảm ơn sự cộng tác của bác sĩ.
Mulder tiến lại. Scully tóm tắt cho Mulder nghe những điều Quinton vừa thông báo. Trông anh chàng hớn hở hẳn lên.
- Anh đã nói với em rồi mà, Scully. Cái chữ then chốt của chuyện này là “vi kỹ thuật”? Em còn nhớ con chó của Kennessy chứ? Anh không biết tại sao những cái máy tí hon ấy lại thoát ra bên ngoài phòng thí nghiệm. Nhưng chắc em không thể chối cãi được rằng có một sự liên quan giữa trường hợp của con chó và trường hợp của người gác dan.
Scully chống tay lên hông. Gió biển hất tung những vòng tóc hung của nàng.
- Có phải anh cho rằng con chó đã tấn công người gác dan, vì vậy anh ta đã bị lây nhiễm!
- Không, Scully. Điều anh nghĩ chính là con chó của Kennessy không phải là sinh vật duy nhất bị lây nhiễm bởi những cái máy tí hon!



- 7 -


UẬN TILIAMOOK, OREGON
Thứ sáu, 10 giờ 47
Trời mưa như thác đổ, nhưng Jerymy không cảm thấy gì cả. Trong cơ thể hắn có quá nhiều thứ linh tinh khiến hắn phải quan tâm hơn giông bão. Chất lỏng chứa những con vật tí hon luồn lách khắp nơi dưới da hắn, tạo thành những cái bướu.
Hắn đi như một cái máy. Chân hắn vận hành một mình. Bộ não của hắn chỉ là một khách bộ hành dửng dưng quá giang trên cơ thể khốn khổ của hắn.
Jeremy tiếp tục đi trong bùn và nước. Hắn chẳng có một ý niệm nào về chặng đường mà hắn sẽ phải vượt qua. Bất chợt thị giác của hắn trở nên mờ ảo. Những sinh vật quỷ quái ấy đã tấn công thần kinh thị giác của hắn? Nhiều ngày qua, hắn không còn phân biệt được màu sắc nữa. Một chiếc xe tải tiến lại.
Jeremy có thể nhìn thấy ánh đèn pha chiếu trên đường.
Chiếc xe vượt qua, bánh xe rào rào trên những vũng nước. Rồi, hắn vừa mừng rỡ vừa ngạc nhiên khi thấy chiếc xe dừng lại và cửa xe được mở ra. Hắn leo lên xe ngồi vào cái ghế cạnh bác tài và thọc ngay hai tay vào trong túi áo khoác đẫm nước mưa.
- Trông ông có vẻ không được khỏe? Người tài xế hỏi.
- Vâng, tôi hơi bị ốm – Jeremy đáp, và ngạc nhiên khi thấy mình vẫn còn nói được.
- Tôi có thể giúp ông, miễn là không sai với lộ trình của tôi. Tên tôi là Wayne Hykaway.
Jeremy ngờ vực nhìn bác tài. Đâu có gì quan trọng, dù sao…
- Còn tôi, Jeremy, Jeremy Dorman.
Hykaway định giơ tay ra, nhưng rồi lại đặt nó lên tay lái khi thấy ông khách không có ý muốn bắt tay mình. Anh ta nhấn ga.
Chiếc xe lao đi dưới trời mưa.
Jeremy thở ra khoan khoái. Chỉ tội nghiệp cho bác tài. Anh ta làm sao đo lường được sự nguy hiểm khi ngồi kề bên người khách quá giang.
Jeremy cảm thấy những cái máy thổ tả chuyển động. Chúng đang làm việc, và hắn có thể nhận thấy cái chất lỏng nhầy nhụa phát triển dưới da hắn.
Mười lăm phút trôi qua. Bác tài bắt đầu nhận ra rằng ông khách quá giang không bình thường. có thể là một bệnh nhân tâm thần đi lang thang?
Jeremy tránh cái nhìn của người tài xế và quay mặt ra phía cửa xe. Bất chợt, hắn đưa tay lên ngực, mặt mày nhăn nhó. Hắn có cảm tưởng một cái gì đó đang cố gắng chui ra khỏi lồng ngực hắn.
- Ê, bố già, không sao chứ. Hykaway ái ngại nhìn ông ta, nắm chặt tay lái. Con đường trước mặt hắn như một con rắn dài.
Jeremy thở một cách khó khăn. Chất nhầy chảy ra từ thân hình hắn, tạo thành một vũng nước chung quanh ghế của hắn. Càng ngày hắn càng thấy không tự chủ được. Hắn còn chống đỡ được bao lâu nữa trước khi suy sụp?
TIỆM BÁCH HÓA “MAX” – COLLVAIN, OREGON
Thứ sau, 12 giờ 01
Scully và Mulder đã dừng xe mấy lần để hỏi người ta về tung tích Jody và Patricia.
- Anh đã tìm rồi – Mulder nói – nhưng không thấy nơi nào gọi là “Colvain”.
Scully cho xe đậu trước một tiệm bách hóa. Hai người tiến vào. Tiếng chuông vang lên khi họ mở cửa.
Tiệm này bán đủ thứ, thượng vàng hạ cám. Một bà già ngồi ở phía sau quầy cắm cúi đọc một tờ báo lá cải mà trên trnag nhất có những cái tít lớn: NHỮNG CÁI PHÔI NGƯỜI TRÁI ĐẤT ĐƯỢC ĐÔNG LẠNH/ HỘI LỄ CỦA NHỮNG KẺ ĂN THỊT NGƯỜI Ở ALASKA/ MÈO ĂN THỊT CHÓ?
- Các vị cần gì nào?
- Chúng tôi là cảnh sát liên bang – Mulder giơ huy hiệu của anh ra – chúng tôi tìm hai người bị mất tích.
Bà cụ giương mục kỉnh lên để xem xét tấm hình của hai mẹ con Patricia.
- Khách vãng lai qua lại vùng này rất nhiều, nhưng tôi nhớ ra rằng đã thấy người đàn bà này, phải, cách đây khoảng hai tuần.
- Hình như đó là một người mẹ sống một mình với đứa con trong một ngôi nhà ở phía đồi. Mỗi tuần bà ta tới thị trấn mua đồ… Các vị hãy đi theo con đường Locust Spring, rồi rời đường cái đi vào rừng. Các vị sẽ không thể nhầm lẫn được: ở lối rẽ thứ ba mé tay phải, có con đường đất.
Cái chuông con ở ngoài cửa lại vang lên. Một người đàn ông mặc đồng phục cảnh sát tiến vào. Bà chủ tiệm tươi cười hỏi hắn:
- Như thường lệ chứ, Jared?
- Dĩ nhiên, Maxie.
Hắn chợt nhận thấy hai khách lạ. Và nhất là cái huy hiệu F.B.I. để trên quầy. Hắn nhìn Scully và Mulder hỏi:
- Tôi có thể làm gì cho các bạn?
Scully giải thích cho hắn biết sự thể và cho hắn coi tấm hình. Có lẽ hắn có thể dẫn Mulder và nàng tới chỗ của Patricia.
Trong lúc hắn sắp sửa trả lời, cái máy talkie-walkie của hắn rèn rẹt.
- Jared, chúng ta có việc khẩn cấp. Dominic vừa tìm thấy thi thể một tài xế, ở cách nhà hắn ba cây số.
- Cho tôi biết chi tiết. Có phải là một tai nạn không?
- Xe chở gỗ đậu ở ngang đường. Cơ thể của người tài xế phủ đầy những mụn mủ và những khối u, y như hắn chết vì bệnh dịch hạch. Ngoài ra còn có một chất lỏng nhớp nháp.
Hai nhân viên F.B.I. nhẩy cẫng lên:
- Chúng tôi đang điều tra về vụ ấy.
- Sao?
Scully kể tóm tắt cho hắn nghe về những chuyện xảy ra ở chung tâm DyMar và kết luận:
- Chúng tôi nghĩ đó là một bệnh dịch, một loại ung thư ghê gớm và dễ lây. Cần phải hết sức thận trọng. Không ai được đụng vào thi thể ấy.
- Em nói như thể em không có ý định đích thân tới đó? Mulder ngạc nhiên hỏi:
- Không, em muốn tới chỗ Patricia – nàng cúi đầu đáp. Nếu bé Jody cần có những chăm sóc khẩn cấp…
Người cảnh sát địa phương đi ra cửa. Mulder theo sau hắn.
- Thôi được, Scully, em hãy tới đó. Chúng ta đã dò đúng đường. Anh sẽ gọi em trên máy di động của em.
Cô nhìn theo chiếc xe của cảnh sát phóng đi trong đám bụi mù, đèn pha nhấp nháy trên nóc xe.
NGÔI NHÀ CỦA JEREMY DORMAN – OREGON
Thứ sáu, 12 giờ 58
Con Vador nằm trước cửa nhà sủa vang. Patricia vội chạy ra phía cửa sổ và vén tấm màn lên.
Nó vừa sủa ăng ẳng một cách đặc biệt, để báo động, chứ không phải vì một con sóc mà nó thấy nhảy nhót trên cây.
Con chó nhe răng gầm gừ về phía đường mòn thông ra đường cái.
- Có chuyện gì đó, mẹ?
Nàng nhìn con trai và nhận thấy nó cũng sợ như mình.
- Có người đi tới.
Patricia tắt hết đèn, khép các màn cửa lại và di ra phía cửa. Một bóng người xuất hiện ở bìa rừng, trong bóng tối của những đại thụ. Nàng không còn đủ thời gian dẫn Jody chạy trốn được nữa.
Nhưng ai có thể tìm ra được chỗ ẩn náu của hai mẹ con nàng? Và bằng cách nào?
Bất chợt Patricia nhớ lại lần đầu khi đi mua đồ ở thị trấn. Trong lúc bà chủ tiệm tính tiền. Bà nhìn thấy mấy tờ báo trên quầy. Có hai nhật báo đăng hình DyMar trong cơn khói lửa, ở ngay trang nhất. Bà đã hoảng hốt lùi lại. Liệu rằng bà ta có chú ý tới cử chỉ của bà không?
- Ai đó, mẹ? Bé Jody lại hỏi.
- Hãy lắng nghe mẹ dặn đây. Con đi về phía sau cửa. Nếu mẹ ra hiệu, con phải chạy trốn vào rừng nhanh chừng nào hay chừng đó. Nếu cần, hãy tìm chỗ ẩn nấp.
- Nhưng con không thể bỏ mẹ lại một mình?
- Mẹ ráng ngăn người ta lại để con có thể chạy xa hơn.
Bà nhìn con trước khi nói tiếp:
- Và lại, nếu họ làm hại mẹ thì đương nhiên con cũng không sao thoát khỏi tay họ. Chạy lẹ đi, con ngoan của mẹ.
Patricia khoanh tay đứng trước cửa, sẵn sàng đối phó. Bây giờ bà đã nhìn thấy rõ người đàn ông: vai rộng, áo quần tơi tả, bước đi loạng choạng như người say rượu.
Con Vador gầm gừ.
Patricia thấy khách lạ nhìn về phía bà. Gương mặt hắn dù đã đổi thay, nhưng bà vẫn nhận ra.
- Jeremy – bà khẽ nói. Jeremy Dorman.
- Patricia? Hắn gọi bà bằng một giọng khàn khàn.
Hắn bước nhanh và lại gần ngôi nhà.
Đọc một tờ báo mua ở ngoài phố, Patricia được biết Jeremy đã chết trong cơn hỏa hoạn. Thế mà bây giờ ông ta lại xuất hiện. Ông ta thoát nạn bằng cách nào? Và David? Có thể anh ấy cũng còn sống chăng?
Patricia không có thì giờ để nghĩ đến câu hỏi ấy. Con chó tiếp tục nhe hàm răng nhọn hoắt.
- Patricia… hãy giúp tôi!
Jeremy lại gần thêm một chút nữa.
- Patricia… Tôi không có thì giờ để giải thích với chị. Cần phải…
Cổ họng hắn nghẹn lại. Hắn không thể nói tiếp. Da hắn phủ đầy một thứ màng nhờn kỳ lạ.
- Anh làm sao thế, Jeremy? Hình như anh đang đau nặng?
Vador có vẻ như không chịu nằm yên. Patricia đặt tay lên mõm nó để cho nó hiểu rằng mọi sự đều suôn sẻ. Dormnan nhìn vào trong nhà qua cửa sổ.
- Jody đâu rồi? Ê, Jody, chú Jeremy đây?
Đứa bé rất thích Dorman. Đó là người duy nhất có cùng sở thích với nó: trò chơi trong video.
- Jeremy, tôi muốn được giải thích…
Con Labrador nhếch mép để lộ ra những cái răng nhọn. Nó bắt đầu sủa.
- Tôi cần phải gặp Jody – Jeremy nài nỉ. Tôi cần nó.
- Làm cách nào anh còn sống sót? Mọi người đều tưởng anh đã chết.
- Lẽ ra thì tôi phải chết rồi – hắn nói với một giọng thiểu não.
- Anh muốn nói cái gì vậy?
- Cũng như David, tôi đã bị phản bội.
Patricia bắt đầu hiểu.
- Đúng như tôi đã nghĩ: đám biểu tình chỉ là một sự đánh lạc mục tiêu. Một toán biệt kích đã tấn công trung tâm, có phải không?
- Không còn một cái gì tồn tại – hắn gật đầu trước khi nói. Không còn một dấu vết nào về sự khám phá của chúng tôi về vi kỹ thuật… Tôi có thể giúp chị Patricia. Họ đang sục sạo khắp nơi để tìm chị. Điều duy nhất tôi cần là một chút máu của đứa con trai chị.
- Cái gì? Patricia giật nẩy người lên và hỏi.
Dorman giơ tay ra, khẩn nài:
- Máu của nó? Bà lặp lại. Quỷ tha ma bắt anh? Anh muốn làm gì với máu của nó?
- Tôi không có thì giờ để giải thích cho chị.
- Đừng hòng lại gần con trai tôi. Chuyện gì đã xảy ra với David? Tại sao anh không giúp đỡ anh ấy?
- Tôi không dè họ có ý định hạ sát anh ấy. Vụ dàn dựng cuộc biểu tình chỉ cốt để hỏa thiêu DyMar. Họ cam đoan với tôi rằng chỉ muốn kiểm soát cuộc nghiên cứu để rồi sẽ di chuyển tới một phòng thí nghiệm bí mật hơn.
Mặt Jeremy co rúm lại vì giận dữ:
- Họ bảo rằng tôi sẽ là giám đốc của trung tâm nghiên cứu mới. Nhưng họ đã định giết luôn cả tôi.
Patricia dường như không tin vào những điều mình đã nghe thấy.
- Anh biết họ sẽ tấn công DyMar. Vậy anh cũng là tòng phạm.
- Tôi không ngờ sự thể lại diễn ra như vậy. Họ đã lừa tôi!
- Anh đã để cho bọn chúng sát hại David, đồ khốn kiếp!
- Patricia, tôi cần phải gặp Jody. Nếu không tôi sẽ chết!
Patricia giơ tay chặn đường.
- Đừng làm vậy, Patricia, tôi van chị. Chị không hiểu…
- Không, tôi không hiểu. Anh định làm gì với con tôi? Tôi phải bảo vệ nó, nó quá đau khổ rồi!
Bà quay mặt vào trong nhà và lớn tiếng:
- Chạy trốn ngay lập tức như lời mẹ dặn. Lẹ lên!
Jeremy tiến lại. Có cái gì động đậy dưới áo sơ mi của hắn ở ngang lưng. Hắn giơ tay ôm lấy xương sườn và nhăn mặt đau đớn. Mắt hắn lờ đờ.
- Tôi không thể chờ lâu hơn được nữa. Tôi cần phải có một chút máu của Jody!
Có tiếng sập cửa ở trong nhà. Patricia hiểu rằng Jody đã chạy đi.
Vador cũng ba chân bốn cẳng chạy theo cậu chủ.
- Jody, trở lại đây! Dorman hét lên. Chú Jeremy của cháu đây mà!
Patricia giận điên người. Bà không cần tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với Jeremy, chỉ biết rằng hắn đã phản bội chồng mình.
Patricia đứng chặn ngang đường để cản không cho hắn đuổi theo con chó và đứa bé.
- Đừng động tới nó!
Khi hắn quay lại, một khẩu súng đã trong tay. Khẩu súng của Vernon Ruckman. Với bàn tay run rẩy, hắn chĩa vào Patricia.
- Patricia, chị không sợ hậu quả của hành động của chị sao?
Hắn run quá đến nỗi không thể bắn được. Cơ bắp của hắn không ngừng co bóp. Patricia cũng không tin rằng hắn có thể thản nhiên giết mình. Bà định nhào vào hắn.
Jeremy thấy rõ ý định của bà nên hét lên:
- Không! Đừng đụng vào tôi!
Nhưng đã quá muộn. Patricia vận dụng tất cả sức lực của mình nhảy bổ vào hắn. Jeremy buông vũ khí, ngã lăn trên đất.
- Chạy mau, Jody chạy mau! Bà kêu lên.
Người đàn ông quằn quại cố sức đẩy Patricia ra.
- Không, Patricia, đừng đụng vào tôi! Tôi van chị, đừng đụng vào tôi!
Patricia đâm mạnh những móng tay vào hắn để cho hắn hết vùng vẫy. Nhưng da của Jeremy phủ đầy một chất nhầy kỳ lạ. Lập tức bà cảm thấy có cái gì không ổn. Những cú sốc điện xuyên qua làn da bà, như những bọt acid.
Patricia giẫy giụa và co quắp lại.



- 8 -


HÀ CỦA JEREMY DORMAN – OREGON
Thứ sáu, 13 giờ 26
Mặc dù bị những cành cây cào xước mặt, nhưng Jody vẫn cắm cổ chạy. Nó đã nghe thấy những câu cuối cùng của mẹ “Chạy mau, Jody, chạy mau lên!”
Đứa bé không cần để cho mẹ phải nhắc. Mẹ nó đã kể cho nó nghe những gì xảy ra ở DyMar. Những người của bóng tối đã phản bội cha nó, thiêu hủy phòng thí nghiệm và triệt phá công trình của ông. Trên đường đi từ Portland tới ngôi nhà ấy, Patricia đã không ngừng dặn dò nó từ nay phải nghi ngờ tất cả mọi người, không tin một ai kể cả “chú” Jeremy của nó, người nó coi như người cha thứ hai.
Cho nên khi mẹ nó bảo chạy trốn, lập tức nó cắm cổ chạy. Niềm an ủi duy nhất của nó là cảm thấy con Vador luôn ở phía sau mình. Đứa bé rẽ trái, nhảy lên trên những rễ cây to đùng. Những lá tầm ma quất vào chân nó, nhưng nó chẳng cần để ý.
Cách đây ít hôm, nó đã cùng với mẹ tiến vào khu vực rậm rạp này. Người mẹ muốn biết rõ địa hình địa vật nơi đây, trong trường hợp phải trốn tránh.
Từ phía xe, Dorman kêu lên:
- Jody, lại đây! Chú chỉ muốn nói với cháu!
Nhưng đứa bé không thèm nghe.
- Chỉ có cháu mới giúp được chú thôi!
Tiếng của Jeremy vọng lại gần hơn. Làm cách nào mà ông ta chạy nhanh như vây? Chắc ông ta còn cách nó không bao xa.
Đứa bé vượt qua một con suối. Con chó đã phóng tới bên cạnh nó.
- Jody, chú cần sự giúp đỡ của cháu, chú van cháu!
Jody bắt đầu thở dốc; mồ hôi chảy trên lưng. Nó quay đầu lại thì thấy Dorman đã ở phía sau. Lão ta giơ tay lên. Đứa bé vừa kịp nhận ra khẩu súng thì đã nghe thấy một tiếng nổ.
“Chú” Jeremy đã bắn vào nó?
- Lại đây, Jody!
Đứa bé sợ hãi nhìn vết đạn trên thân cây. Con Vador sủa ở phía trước như có ý bảo cậu chủ chạy theo nó. Jody tiếp tục chạy. Tim nó như muốn thoát ra khỏi lồng ngực. Đằng sau Dorman đang sắp sửa vượt suối.
- Cháu ơi, chú van cháu đấy!
Nhưng đứa bé chỉ còn biết chạy theo con vật trung thành, bạn đồng minh duy nhất của nó.
MỘT VÙNG BÌNH ĐỊA THUỘC OREGON
Thứ sáu, 13 giờ 03
Chiếc xe tải chở những thân cây đậu ở vệ đường. Cách đó không xa có một chiếc pick-up màu đỏ.
Jared Penwish hãm xe lại. Mulder vội vã nhảy xuống để tới xem xét chiếc xe tải.
- Anh chưa đụng vào một cái gì chứ? Mulder hỏi bác tài lái chiếc pick-up.
- Bộ anh đùa sao? Hắn nhăn mặt biểu lộ một sự ghê tởm. Thằng cha trong cabine ở trong một tình trạng khủng khiếp!
Jared tiến lên phía họ và giới thiệu:
- Dominic, đây là ông Mulder, người của F.B.I.
Người lái chiếc pick-up nhăn mặt kể lại:
- Khi thấy chiếc xe tải ấy đậu ở vệ đường một cách nguy hiểm, tôi cho xe dừng lại và nhảy xuống định “quạt” cho bác tài một trận. Tôi nhìn vào trong cabine… Ôi, lạy Chúa! Tôi chưa bao giờ mục kích một cảnh tượng như thế!
Mulder bỏ mặc cho hai viên cảnh sát trò chuyện, đích thân tới đó xem xét. Trong ngăn lái, người tài xế nằm trong tư thế không bình thường. Mặt anh ta rúm ró và đầy những mụn mủ, mồm há hốc. Mắt bị che phủ bởi một chất lỏng màu sữa. Da lổn nhổn những khối u và những đường gân. Cửa kính và kính chắn gió bị hơi nước đọng lại nên không thể thấy rõ các chi tiết.
Mulder quay lại bảo Jared:
- Hãy truy cứu bảng số của xe tải này. Tôi muốn biết nạn nhân là ai, từ đâu đến và đi đâu.
Lại thêm một trường hợp nữa về cái bệnh quái đản ấy. Điều Mulder lo sợ nhất là vụ việc lại diễn ra ở gần nơi hai mẹ con Patricia ẩn nấp, ở đó có Scully tiến hành một cuộc điều tra một mình!
Jared ném một cái nhìn vào xác chết rồi trở lại, lắc đầu lia lịa:
- Thật kinh tởm! Chuyện gì đã xảy ra với người đàn ông này?
Mulder nói:
- Hãy đặt nơi này dưới sự cách ly kiểm dịch. Tôi sẽ đảm trách nội vụ. Bác sĩ pháp y ở Portland đã nghiên cứu những trường hợp tương tự. Đừng chạm vào đó. Hãy huy động các nhân viên mặc y phục đặc biệt tới khử nhiễm khu vực này. Người lái xe tải rất có thể là nạn nhân của một tác nhân sinh học cực mạnh.
Mulder đi một vòng quanh chiếc xe tải. Những thân cây vẫn nằm yên trong thùng xe. Chiếc xe suýt đâm vào một cây thông ở ven đường. Hiển nhiên là hắn đã bị co giật. Nhưng tại sao hắn lại mắc chứng bệnh kỳ lạ ấy? Hắn đã đụng vào một vật gì hoặc hít phải khí độc chăng?
Bất chợt có một chi tiết làm Mulder chú ý: cửa cabine, phía để cho khách ngồi, không đóng chặt. Anh thận trọng lại gần. Nếu có một khách quá giang thì sao?
Mulder nhìn chung quanh tưởng như sẽ phát hiện một xác chết thứ hai trên đất. Nhưng không có gì.
- Ông có khám phá được cái gì không? Jared hỏi.
- Không, nhưng tôi cần phải tiếp tục xem xét. Các anh chớ có lại gần.
Hai viên cảnh sát trở lại chỗ đậu của chiếc pick-up, trong lúc Mulder từ từ mở cửa chiếc xe tải. Nhìn gần, cảnh tượng còn ghê khiếp hơn. Hơi nước đọng trên khung kính có thể gây ra bởi hơi nóng tỏa ra từ xác chết?
Không có mùi thối rữa, Mulder nhận xét. Điều đó chứng tỏ nạn nhân không phải chết từ lâu. Anh còn nhận thấy những dấu vết ẩm ướt trên chiếc ghế ngồi dành cho khách bên cạnh tài xế. Vẫn là các chất nhầy quỷ quái được tìm thấy trên thi hài người gác dan ở DyMar. Bất giác anh rùng mình và không dám lại gần hơn.
Có một mành giấy trên sàn cabine. Anh lấy cái bút máy, rồi hết sức thận trọng, lật nó lên.
Đó là một tấm hình. Và anh nhận ngay ra họ. Trong những ngày vừa qua, đã nhiều lần anh đưa chân dung của họ cho mọi người coi: Jody và Patricia. Người đi theo bác tài xế xe tải, bị lây nhiễm bởi bệnh dịch, đã quan tâm tới người mẹ và đứa bé bị mất tích. Và lại đúng vào lúc Scully đang đi tìm họ.
Cần phải báo cho Scully biết.
Mulder cất bút đi và thử gọi Scully trên máy di động. Không được. Anh trở lại chỗ hai cảnh sát viên.
- Không cho ai lại gần chiếc xe tải – anh nói với Jared. Nơi đây rất nguy hiểm. Anh hiểu chứ?
- Rõ, thưa sếp.
Mulder quay về phía anh chàng Dominic.
- Anh có thể cho tôi mượn chiếc xe của anh?
- Nghĩa là…
- Tôi phải đi báo cho cô bạn đồng nghiệp của tôi. Cô ấy đang lâm nguy. Đưa chìa khóa cho tôi!
Dominic nhìn anh leo lên chiếc pick-up của mình nhưng không phản đối. Jared khẽ nói:
- Ông ta có quyền trưng dụng chiếc xe ấy, đó là một nhân viên F.B.I. Tôi đã nhìn thấy huy hiệu của ông ta. Tôi sẽ đưa anh về nhà. Dominic, đừng lo ngại.
Mulder nổ máy. Anh cần gặp Scully trước khi quá muộn.
NHÀ CỦA JEREMY DORMAN – OREGON
Thứ sáu, 13 giờ 45
Scully đi lầm đường hai lần. Cô phải đi vòng lại. Bà chủ tiệm bách hóa nói với nàng về một con đường nhỏ có đặt hộp thư. Nhưng cô chỉ thấy một đường mòn có nhiều bụi rậm với một cái cột mang một con số nhưng không ghi tên.
Lối đi ấy dẫn lên đỉnh đồi, ở trong rừng. Một nơi lý tưởng để ẩn náu: hoàn toàn kín đáo và cắt đứt với thế giới bên ngoài. Có thể Jody và mẹ nó đã tìm ra được nơi đây.
Khi lên tới đỉnh đồi, cô nhìn thấy một ngôi nhà ở phía đầu đường, nằm trong một cánh rừng thưa. Một chiếc Volvo đậu ở đằng sau nhà. Dân bản địa đa số là những người lao động không bao giờ sử dụng loại xe ấy. Chắc chắn chủ nhân phải là một phụ nữ trẻ đẹp như Patricia.
Tim cô đập mạnh. Nàng có dừng xe ở trong rừng. Điều kiện cô băn khoăn nhất là Jody và mẹ nó có làm chủ được mình hay không hay đang ở trong tay bọn bắt cóc.
Scully quyết định, không nên để mất thì giờ: đứa bé cần được chăm sóc khẩn cấp.
- Này, có ai đấy không?
Nếu có bọn tội phạm trong nhà, cô sẽ mau chóng nhìn thấy chúng.
Không một tiếng động.
Khi tới nơi, lăm lăm khẩu Sig Sauer, cô lấy huy hiệu ra và chuẩn bị mở cửa.
- Có ai không? Cảnh sát liên bang đây!
Trong nhà hình như không có một ai. Những tấm rèm được buông xuống. Chẳng có gì động đậy. Nhưng cửa không khóa.
Cô ngần ngại. Trong lúc suy nghĩ, một hình thù ở trên bãi cỏ, thu hút cái nhìn của cô… một hình người. Ngón tay đặt trên cò súng, cô rón rén lại gần.
Đó là một phụ nữ. Nàng nhận ra ngay Patricia với mái tóc vàng óng ả. Nhưng trong Patricia thật ghê sợ! Thân hình co quắp, đầu quay về một phía, mặt biều hiện sự kinh hoàng. Da bà ta có những khối u với hình dáng và màu sắc khác nhau. Mắt bà nhắm nghiền nhưng người ta có thể đoán ra được những túi máu dưới mi mắt. Tay mở rộng và những ngón tay như sẵn sàng cào cấu. Người đàn bà ấy đã phải chống lại một cái gì khủng khiếp. Scully cắn môi. Cô đến quá muộn.
Là bác sĩ, cô biết không nên đụng vào thi thể của nạn nhân, dù trong thâm tâm cô muốn giơ tay vuốt nhẹ lên người Patricia, để thay cho lời vĩnh biệt.
Nhưng còn Jody. Cần phải tìm ra và chăm sóc nó.
Gió rì rào trên những cành cao. Mây xám phủ đầy trời. Lại sắp có một cơn mưa lớn. Có tiếng chim hót ở đằng xa…
Thình lình, một tiếng súng nổ ở đâu đó, trong rừng. Nàng nghe thấy tiếng chó sủa và giọng một người đàn ông hét lên:
- Jody, lại đây!
Giọng nói trở nên khàn khàn và cuồng nộ:
- Lại đây, chú van cháu!
Scully lên đạn. Cô hiểu chuyện gì đã xảy ra: một người đàn ông bị lây nhiễm bởi bệnh dịch vi kỹ thuật đã tới đây, gây ra cái chết thảm thương cho Patricia và bây giờ đang đuổi theo Jody. Cô cần phải tìm ra đứa bé trước hắn ta. Cô lao vào rừng
NHÀ CỦA JEREMY DORMAN – OREGON
Thứ sáu, 13 giờ 59
Tuy đã cố sức chạy nhưng Jody vẫn bị Jeremy bám sát. Jody chỉ biết một nơi chắc chắn có thể che chở được nó: ngôi nhà nó đang ở. Nó tiếp tục tiến tới, nhưng lại chay theo đường vòng cung để trở lại điểm xuất phát. Con Vador vừa sủa vừa nhảy chung quanh Jody.
Đứa bé có cảm tưởng như có những mũi kim xuyên qua chân nó. Nhưng nó bất chấp nỗi đau, cứ cắm cổ chạy. Nó biết rõ khu rừng này nên dễ dàng quay trở lại ngôi nhà. Lúc này nó đang ở trên cao, ở đó nó có thể nhìn thấy căn nhà và con đường dẫn tới đó. Một chiếc xe lạ đậu cách đó không xa.
Jody sợ hãi. Ngoài Jeremy còn có một kẻ khác đuổi theo nó? Mẹ nó đã từng bảo nó rằng, hai mẹ con có rất nhiều kẻ thù! Nhưng lúc này, mối nguy hiểm trực tiếp chính là Jeremy đang ở phía sau.
Jody ngả người xuống để tuột xuống dốc.
- Cháu be ơi, lại đây. Đừng sợ gì cả.
Đứa bé đã nhìn thấy cặp mắt lờ đờ của Jeremy. Ông ta không ở trong tình trạng bình thường. Hơn nữa, ông ta còn bắn nó.
Dốc bắt đầu khó tuột. Nhưng con Vador đã ở phía dưới và sủa vang, để khích lệ cậu chủ theo nó.
Không có sự lựa chọn nào khác. Nó ngồi xuống và để cho thân hình lướt đi.
Dorman cũng làm như vậy. Bất chợt đứa bé thấy mình tuột đi thật nhanh. Nó cố bám lấy những cành cây ở dưới, nhưng không được. Đất, đá, cành cây lăn theo. Sau cùng nó cũng xuống tới đất và không giấu được sự nhăn nhó, bởi lưng nó đau như dần.
Jody ngước mắt nhìn lên và khiếp hãi khi thấy Jeremy đang ở lưng chừng và cũng đang tuột xuống. Mặt lão ta trông dễ sợ: da lão động đậy, như thể có những con vật lúc nhúc ở bên dưới.
- Jody, tại sao cháu làm khó dễ như vậy? Chúng ta đã quá đau khỏ rồi, cả cháu lẫn chú, có phải không nào?
Đứa bé gắng gượng đứng dậy.
- Mẹ tôi đâu? Nó kêu lên.
- Jeremy giơ tay lên, buông súng xuống, cảnh sát liên bang đây!
Scully chỉ cách họ vài mét. Nàng ở tư thế bắn.
Dorman bất động.
Scully đã theo những tiếng chó sủa để tìm ra Jody. Ngay khi cô nhìn thấy mặt người đàn ông, cô biết hắn là kẻ mang trong người bệnh dịch ung thư.
Jody không biết cô là ai. Nó nhìn cô.
- Cô cũng tham dự vào cuộc âm mưu… nó nói khẽ. Câu nói ấy khiến Scully bối rối. Té ra nó cũng biết về cái chết của cha nó và tấn thảm kịch diễn ra ở DyMar. Nhưng điều cô ngạc nhiên nhất là thấy nó có vẻ khỏe mạnh – dĩ nhiên nó thở không ra hơi và hoảng sợ, nhưng không có một dấu hiệu đặc thù nào về bệnh bạch cầu đã từng hành hạ nó.
Cách đây chưa đầy một tháng, Jody còn xanh xao, gầy guộc, chờ chết. Vậy mà ngày nay, nó chạy xuyên rừng và nhảy qua cả những thân cây!
Jeremy nhìn cô một cách miệt thị.
- Phải chăng đứa bé đã nói đúng. Cô cũng tham dự vào cuộc âm mưu triệt hạ chúng tôi, nó cũng như tôi?
Trước khi cô kịp đáp, một mũi tên đen bay vụt đi: Vador nhảy bổ vào người đàng ông đang đe dọa chủ nó!
Scully nhận ra con vật, con Labrador đen mà vị bác sĩ thú y đã chích cho nó một mũi “ân huệ”, vậy mà bây giờ nó lại tái hiện, như trở về từ cõi chết!
- Vador, coi chừng! Đứa bé thét lên.
Người đàn ông cầm súng ngã vật ra dưới sức nặng của con chó. Hắn bóp cò.
Tiếng nổ vang rền trên những ngọn đồi chung quanh.
Jody bị đạn vào ngực. Nó bị hất vào một thân cây, ở phía sau nó. Nó thốt kêu lên đau đớn và ngã xuống một vũng nước.
Vador không buông tha kẻ đã bắn Jody. Nó cắn vào mặt, cánh tay, bàn tay hắn. Người đàn ông thét lên.
Scully vội chạy lại phía đứa bé.
- Lạy Chúa!
Cô quì xuống gần Jody và để đầu nó lên trên đùi mình. Mắt Jody mở to. Máu chảy ra từ miệng nó. Nó nhìn Scully thầm thì:
- Cháu mệt quá.
Cô vuốt tóc nó, quên hẳn tên sát nhân đang đánh vật với con chó. Cô chẳng thể làm được gì cho đứa bé khốn khổ này.
Con chó cắn nát cổ họng tên giết người, dứt ra những gân và cơ bắp. Người đàn ông buông súng, đánh vào sườn con chó nhưng những cú đập ngày càng yếu đi…
Scully bất lực, nhìn máu ứa ra trên áo sơ mi của Jody. Cô xem xét kỹ vết thương thủng một lỗ tròn.
- Ôi, không!
Nó bị trúng đạn ở phía phổi trái. Và có lẽ cả tim nữa. Một vết thương chí mạng.


- 9 -


HÀ JEREMY DORMAN – OREGON
Thứ sáu, 14 giờ 20
Rừng không còn là nơi yên bình như trước đây vài phút. Mùi thuốc súng và mùi máu phảng phất trong không khí. Chim cũng ngưng tiếng hót. Scully lấy lại tinh thần, đứng lên và nắm lấy cổ dề Vador. Con vật đã biến cơ thể tên sát nhân thành nhiều mảnh. Nàng vỗ vào cổ dề của nó.
- Thôi đi nào, bình tĩnh lại đi!
Lúc này cô mới chợt nhận ra sự nguy hiểm khi tiếp xúc với con vật vừa cắn nát cổ một con người bị nhiễm bệnh.
Vador gầm gừ, nhe răng. Máu còn dính trên bộ lông mượt mà của nó, trên những cái răng nanh sắc bén của nó.
Scully nhìn thi thể tên giết người. Hắn không còn cổ nữa, áo sơ mi bị rách tan tành. Bàn tay trái của hắn co thắt như một con nhái trên bàn phẫu tích. Da hắn động đậy bởi sự hoạt động của những ký sinh vật. Thịt hắn phủ đầy một chất nhầy mà cô đã nhìn thấy trên thi thể của Vernon, khi giải phẫu hắn.
Những cái vết xuất hiện và biến đi trên cơ thể. Người đàn ông này mắc một chứng bệnh đã giết hại Patricia, Vernon và có thể cả người lái xe tải mà Mulder đang mở cuộc điều tra. Như vậy chắc hẳn đã có một sự liên quan giữa tất cả những người ấy và cuộc nghiên cứu của David Kennessy ở DyMar. Ông đốc tờ này đã học đòi làm phù thủy để chữa cho đứa con trai của ông thoát khỏi bệnh bạch cầu…
Scully quan sát con chó ngồi ở bãi cỏ. Hình như nó không bị lây nhiễm bởi máu của Jeremy. Nàng quay lại Jody. Vết thương của nó thật dễ sợ. Viên đạn, thay vì bắn ra khỏi phía lồng ngực bên kia, lại cắm chốt ở đâu đó, có thể gần tim.
Nhưng không thể nào tưởng tượng được: đứa bé vẫn còn thở.
Nàng thử gọi Mulder trên máy di động. Không có tín hiệu nào.
- Cô phải bế cháu lên thôi. Cô hy vọng cô sẽ không làm cháu đau.
Vador rên rỉ. Nó muốn tới coi xem chuyện gì đã xảy ra với cậu chủ, nhưng Scully vẫn giữ một khoảng cách. Có thể nó cũng mang chứng bệnh ghê gớm ấy.
Không đến nỗi khó khăn cho lắm, Scully cũng bồng được đứa bé lên. Cần phải mau chóng đưa nó tới một bệnh viện gần nhất.
Scully bế Jody rảo bước đi về phía chiếc ô tô. Con Labrador lẽo đẽo theo sau.. Cô cảm thấy thằng bé lên cơn sốt. Chuyện đó hoàn toàn không bình thường. Nó vẫn còn mất máu. Từng giọt nhỏ rơi trên đất.
Thi thể đã biến dạng của Patricia nằm gần ngôi nhà. Scully tự nhủ không nên để cho đứa bé hấp hối nhìn thấy mẹ nó trong tình trạng ấy.
Tới chỗ xe đậu, cô đặt thằng bé ở băng sau. Máu không còn chảy ra từ vết thương nữa. Scully ngỡ tim nó đã ngừng đập. Cô tháo băng quấn chung quanh ngực nó, có thêm một tiếng bông rồi ngồi vào chỗ tay lái.
Vador cũng nhảy vào xe sủa vang như muốn nói: “Nhanh lên! Nhanh nữa lên!”
CAO ỐC FEDERAL – PHÒNG SỐ 313, THÀNH PHOOS CRYSTAL, VIRGINIA
Thứ sáu, 12 giờ 08
Chuông điện thoại kêu. Adam Lenz đang nghiên cứu một bản đồ chi tiết của những vùng đồi Oregon, vội nhấc máy lên. Rất ít người biết số dây nói trực tiếp ở văn phòng của hắn. Cú gọi này hẳn là phải quan trọng.
- A lô?
Lúc mới vào nghề, hắn phải luyện mãi mới bỏ được thói quen nói: “A lô? Adam Lenz đây”. Con người thật của hắn không còn hiện hữu nữa. Hắn làm việc cho một cơ quan ma.
Giọng nói ở đầu dây bên kia rất quen thuộc. Hắn đứng dậy.
- Vâng, thưa sếp, vâng… Tôi sẽ gửi lên sếp báo cáo về sự tiến triển của tình hình…
Hắn đã thực hiện một bản đồ mô tả những khu vực khác nhau của vùng đồi đã được lục soát bởi các điều tra viên và những chuyên viên săn đuổi tham gia vụ này.
- Thưa sếp, tôi sẽ đi Portland trong vòng một giờ nữa. Tôi sẽ đích thân điều khiển công việc tại chỗ.
Không có báo cáo viết, không có tài liệu liên lụy: đó là luật. Adam bèn tóm lược tình hình bằng miệng. Hắn trình bày các phương án mà hắn đã thực hiện để tìm kiếm Jody, Patricia, cả con Vador và những vi sinh vật.
Sáu ê-kíp đã rà soát các ngọn đồi. Nhưng cấp trên vẫn tỏ ra không hài lòng.
- Trong báo cáo đầu tiên của anh, anh bảo rằng anh đã đốt cháy sạch cả DyMar và tất cả những sinh vật tí hon ấy đã bị thủ tiêu hết. Tôi vô cùng thất vọng khi được biết chúng vẫn còn tồn tại.
Adam nuốt nước bọt một cách khó khắn.
- Trong vụ cháy ở DyMar, chúng tôi nghĩ rằng đã phá hủy tất cả. Nhân viên của chúng tôi còn mở cả két sắt ra.
- Dĩ nhiên, nhưng nếu tin vào cái điều đã xảy ra với người gác dan đêm hôm ấy trong những cảnh tan hoang của phòng thí nghiệm, và nếu tôi tin vào một vài hồ sơ mô tả cái chết của nhiều người khác, thì những sinh vật bé nhỏ ấy vẫn còn hoạt động.
- Tôi biết, thưa sếp. Tôi xin cam đoan với sếp rằng chúng tôi sẽ tìm ra những kẻ chạy trốn, triệt tiêu những vi sinh vật cuối cùng.
- Tôi không thích nghe diễn văn, tôi muốn kết quả. Điều chót, tôi đã nói với anh về Mulder. Tôi muốn một trong những ê-kíp của anh phải thường trực theo dõi hắn, nghe tất cả những cuộc nói chuyện của hắn, rình rập từng cử chỉ của hắn.
- Thưa sếp, vâng.
- Trong sứ mạng này anh có nhiều nhân viên dưới quyền, nhưng tôi nghĩ rằng Mulder cũng sẽ có ích cho anh. Hắn có cái tài đặc biệt để luồn lách trong cái mớ bòng bong ấy và tìm ra cái mà mọi người không thấy. Hãy bám sát hắn. Anh phải kết thúc sớm sứ mạng này. Các đồng bào chúng ta sẽ không bao giờ biết gì về nội vụ.
NHÀ CỦA JEREMY DORMAN – OREGON
Thứ sáu, 15 giờ 15
Chiếc pick-up mà Mulder trưng dụng quả là kỳ diệu. Động cơ của nó cực mạnh. Mulder nhấn ga. Chiếc xe nhảy lên, leo đồi không một chút khó khăn.
Ngôi nhà nằm đó, trong một khoảng rừng thưa. Nhưng không thấy xe của Scully, Mulder nhận ngay ra những vết bánh mới trên đường, và một chiếc Volvo kiểu mới.
Cô bạn của anh ở đâu. Kẻ nào đã tới đây bằng ô tô và lại ra đi? Anh lấy máy di động gọi cho Scully. Cố nén một câu chửi thề, anh bỏ máy vào túi, xuống xe và đi về phía ngôi nhà.
- Cảnh sát liên bang, có ai đó không?
Anh xoay gót để kiểm soát xem có kẻ nào ở đằng sau mình không.
- Scully, em có đấy không?
Một phụ nữ nằm trên cỏ, bất động…
Patricia Kennessy? Không còn ai khác nữa?
Mulder ghê khiếp lùi lại. Bà ta đã bị cùng một chủng bệnh với người lái xe tải mà anh vừa nhìn hấy. Và Scully đã tới đây… Lạy Chúa!
Anh vừa chạy vào trong nhà vừa gọi: “Scully!” Không một ai lên tiếng. Anh xem xét dưới đất và phát hiện những giọt máu rải rác trong cỏ. Chúng vạch một đường về hướng rừng.
Xa hơn nữa, ở bìa rừng, trong bùn có những dấu giày mà anh nhận ra ngay đó là giày của Scully, và những dấu chân chó.
- Scully! Scully! Anh hét thật to. Scully, em ở đâu?
Cái kẻ đã gây bệnh cho người gác dan, rồi người lái xe tải và sau cùng là Patricia đã ở đây, rất gần đây? Nỗi sợ tràn ngập trong anh. Y như một cơn ác mộng: có thể anh sẽ thấy Scully và bé Jody, nằm trên đất, trong rừng, bị hủy diệt bởi bệnh dịch.
Vệt máu trong cỏ dẫn Mulder tới một mô đất. Một người đàn ông quần áo tả tơi, cổ họng bị rách nát, nằm giữa đống rễ cây. Mulder ngửi thấy hai mùi quen thuộc: máu và thuốc súng. Anh quan sát xác chết gần hơn và nhìn thấy một khẩu súng lục trong tay hắn. Anh xem xét cổ họng của nạn nhân. Hình thù của vết thương chứng tỏ anh ta đã bị một con vật cắn chết.
Bất chợt, một chất lỏng trong mờ chảy ra từ vết thương. Một thứ chất nhầy. Cơ thể của người đàn ông này đang ở trong giai đoạn tu sửa?
Mulder lùi lại. Một hiện tượng khủng khiếp. Anh đảo mắt nhìn chung quanh. Ngay dưới chân mô đất có những dấu vết sâu, như thể một người nào đó đã tuột từ trên cao xuống. Còn có những dấu giày – vẫn là dấu giày của Scully và dấu chân chó.
Nhưng cũng lại có nhứng dấu chân khác. Dấu chân của một đứa bé. – “Scully?” Chỉ có tiếng chim và tiếng gió trả lời anh…
Thình lình, cái xác chết tự dưng co thắt. Người chết bật dậy và nắm lấy ve áo của Mulder. anh chàng kêu ré lên, dẫy dụa, nhưng không thể thoát ra được. Người lạ mặt giơ một tay khác lên, chĩa súng vào thái dương Mulder. Anh nhìn thấy làn da hắn gợn sóng. Những bộ máy tí hon, những vi sinh vật lúc nhúc trong cơ thể hắn. Người hắn đầy chất nhầy.
Bây giờ cổ họng hắn đã khôi phục lại nguyên trạng. Hơi nhiệt tỏa ra khắp cơ thể hắn. Hắn mở miệng, nhưng thanh quản mới lành nên chỉ có thể lắp bắp:
- Súng… của anh, ném nó… đi?
Mulder đang tính toán xem có kịp rút khẩu súng Sig Sauer trong túi ra không thì tên sát nhân đã đoán ra được ý nghĩ của anh.
- Đừng dại dột! Giọng hắn sắp trở lại bình thường.
- Cơ thể ông đang hồi phục, Mulder sững sờ nói. Đó là nhờ kỹ thuật phải không?
Người đàn ông thở một cách khó khăn:
- Ông là một người trong bọn chúng… Ông là người của bóng tối, ông cũng vậy.
Hắn buông Mulder ra. Một chút chất lỏng nhầy còn dính trên ve áo. Người lạ mặt lầu bầu:
- Nếu tôi là ông, tôi sẽ ném ngay cái áo đi và không đụng vào chất nhầy ấy.
- Ông khỏi lo, tôi biết nó nguy hiểm khôn lường.
Mulder nhẹ nhàng cởi áo ra.
- Làm cách nào ông tìm thấy tôi? Ông là ai?
- Nhân viên đặc biệt Fox Mulder, F.B.I.
Người lạ mặt cười mỉa mai:
- F.B.I., đương nhiên rồi. Tôi đã ngờ ông dính líu vào âm mưu ấy. Các ông đã săn lùng chúng tôi và xóa bỏ tất cả những dấu vết, tất cả những chứng cứ, có phải không?
- Đây là lần đầu tiên, người ta buộc tội tôi tham dự vào một âm mưu! Còn ông, ông là ai?
- Ông không biết ư? Người đàn ông cau mày hỏi lại.
- Vâng, tôi tới đây không phải để tìm ông. Tôi chỉ biết ông đã bị lây nhiễm bởi một sản phẩm, kết quả của một cuộc thí nghiệm được thực hiện ở DyMar.
- Tôi là DyMar? Ông ta kêu lên. Tôi…
Bất chợt ông ta nín thinh và gập mình làm đôi, rên rỉ trong đau đớn. Một cái gì động đậy dưới áo sơ mi của ông ta. Một chất lỏng chảy trên da ông ta rồi biến mất trong những cơ bắp, như bởi ma thuật.
- Tôi là Jeremy Dorman, phụ tá của David Kennessy.
- Jeremy Dorman? Mulder mở to mắt, hỏi. Nhưng ông đã chết rồi mà? Ông đã bị thiêu hủy trong cuộc hỏa hoạn đã tàn phá những cơ sở của trung tâm nghiên cứu.
Ông ta cố nở nụ cười:
- Tôi đâu có thể dễ chết như vậy.
- Ông đã giết tất cả những người ấy… Vernon, người lái xe tải, Patricia?
- Tôi không làm điều gì quá đáng! Họ đã đụng vào tôi!
Ông ta nhìn Mulder:
- Ông có xe không?
- Có, không đẹp, nhưng chạy tốt.
- OK. Chúng ta rời khỏi đây. Tôi cần phải tìm thấy Jody. Chỉ có nó mới có thể cứu được tôi.
- Đã có chuyện gì xảy ra với nó?
- Tôi đã bắn nó trước khi con chó tấn công tôi. Một người phụ nữ nói rằng mình là người của F.B.I. cũng có mặt ở đó.
Mulder không nói gì cả, đi ra phía lộ, tay giơ lên trời.
- Tôi cho rằng cô ta đi tìm nơi chạy chữa cho thằng nhỏ, Dorman nói tiếp. Cô ta bỏ mặc tôi, tưởng tôi đã chết.
- Nhìn cổ họng của ông, ai cũng nghĩ như vậy.
- Cần phải tìm ra họ.
Hai người đi tới chiếc xe. Jeremy mở cửa và ngồi trên ghế của hành khách.
- Chúng ta đi thôi! Và xin ông nhớ kỹ điều này: đừng đụng vào tôi!
Tiếng động cơ nổ ròn rã.
- Ông hãy an tâm, thưa ông Dorman – Mulder nói một cách nghiêm túc như chưa bao giờ nghiêm túc đến thế – Đụng vào ông chắc chắn là điều cuối cùng mà tôi ao ước!


- 10 -


HỮNG NGỌN ĐỒI Ở OREGON
Thứ sáu, 16 giờ 19
Con đường đất vòng vèo trên những ngọn đồi cao ở Oregon. Scully nắm chặt tay lái. Cô không biết mình đi đâu, nhưng bằng mọi giá phải tới một bệnh viện nào đó, càng sớm càng tốt.
Trên băng sau, Vador rên rỉ. Nó có vẻ lo sợ. Mõm và lông của nó hãy còn đầy máu. Scully tự nhủ, lẽ ra phải tắm rửa cho con vật trước khi để nó leo lên xe với Jody.
Con chó ngồi im lìm bên cạnh cậu chủ hấp hối. Scully đã kiểm soát mạch của đứa bé trước khi nổ máy. Mạch yếu và không đều, nhưng chứng tỏ rằng thằng bé – không hiểu do phép lạ nào – vẫn bán víu lấy cuộc sống.
Một con chó săn lớn chợt xuất hiện trước xe và băng qua đường. Cô vội xoay tay lái để tránh nó. Chiếc xe bị chệch hướng chồm lên. Cô vội quay lại để xem Jody có sao không.
Đúng vào lúc cô quay lại, cơ thể đứa bé co giật. Xương sống nó ưỡn cong, mặt nó thay đổi. Cô dừng xe lại để xem xét nó gần hơn. Cô e rằng cái điều không thể tránh được đang diễn ra: thần chết đang đến!
Trán Jody nóng bỏng và đẫm mồ hôi, mắt nhắm nghiền. Scully dù là thầy thuốc, cũng đành chịu.
Sự co thắt ngừng lại, và thằng bé lại ngã người trên ghế. Nó thở dễ dàng hơn trước. Cô tự nhủ tình trạng của nó đã ổn định. Chẳng cần biết do cách nào hoặc tại sao. Nàng leo lên xe và nổ máy.
Jody chợt ho và đứng dậy. Scully nhìn thấy nó trong kính chiếu hậu, suýt nữa không kiểm soát được tay lái. Vador lại gần đứa bé, liếm mặt cậu chủ rồi vẫy đuôi như điên.
Scully thắng xe lại.
- Jody, cháu khỏe chứ?
Đó là tiếng kêu kinh ngạc chứ không còn là câu hỏi nữa.
Đứa bé dụi mắt và khẽ nói:
- Cháu đói…
Vết thương trên ngực nó vẫn đầy máu nhưng đã kín miệng.
Scully xuống xe để mở cửa sau. Cô nắm vai Jody.
- Hãy ngồi cho thoải mái. Cháu cảm thấy khỏe chứ?
Cô sờ má nó. Cơn sốt đã giảm. Nơi trước đây vài phút hãy còn là một vết thương, nay nhẵn nhụi như thể chẳng có chuyện gì xảy ra.
- Không sao tin được – Cô nói thầm.
- Có gì ăn không cô. Đứa bé nài nỉ.
Scully chợt nhớ có một gói bánh bích qui để trong hộp đựng bao tay. Cô đưa cho Jody và nó ăn không kịp nuốt. Con Vador đứng chầu mồm, vẫy đuôi lia lịa, nhưng cậu chủ mải ăn quên luôn cả nó. Ăn hết bánh, thằng bé với tay để lượm một mẩu bánh rơi trên ghế.
Scully nghe thấy một tiếng động kim loại. Một viên đạn súng lục vừa rơi xuống sàn.
Cô nhìn vào lưng Jody khi chiếc sơ mi của nó bị hất lên. Chỉ còn một vết đỏ ở xương bả vai.
Nàng ngắm nhìn viên đạn giây lát.
- Jody, cháu có biết chuyện gì xảy ra không?
Thằng bé mỉm cười. Mặt nó lấm lem những muối và bánh vụn. Con Labrador hếch mõm lên đùi cậu chủ.
- Tất nhiên cháu biết chứ – nó hãnh diện đáp. Chính ba cháu đã phát minh ra chúng đấy: những vi sinh vật. Đó là những cảnh sát tí hon ở trong cơ thể cháu, để chữa bệnh bạch cầu của cháu.
Trước khi Scully định hỏi thêm một vài câu, đứa bé đã ngáp dài. “Cháu mệt lắm!” Nó chớp mắt nhiều lần và thở mạnh, rồi ngả người trên ghế dài. Nó ngủ liền – một giấc ngủ không giống với cơn hôn mê trước đó.
Scully lùi lại mấy bước để nhìn rõ hơn đứa trẻ của phép màu khoa học. Về phần mình, cô không bao giờ tin một chuyện như vầy, nhưng lại cũng không thể phủ nhận được thực tế: Cô đã chứng kiến sự hồi sinh cùa Jody Kennessy. Cô cũng hiểu tại sao thằng bé không còn gầy guộc xanh xao nữa, như trên tấm hình, khi nó còn mang chứng bệnh bạch cầu bị coi như vô phương cứu chữa.
Scully leo lên xe, cài thắt lưng và nổ máy.
Kennessy đã thực hiện một khám phá phi thường và ông đã tự tiện thực nghiệm cho đứa con trai ông mà không tuân theo thủ tục thông thường: thí nghiệm trên súc vật, những kiểm soát của các phòng thí nghiệm độc lập…
Với tư cách thầy thuốc, Scully không thể không bực dọc. Người cha của Jody đã coi thường đạo đức. Nhưng với tư cách con người, ngược lại, nàng hiểu rằng người đàn ông khốn khổ ấy sẵn sàng làm bất cứ cái gì để cứu đứa con của ông.
NHỮNG NGỌN ĐỒI CỦA OREGON
Thứ sáu, 17 giờ 7
Đường đồi có nhiều quãng vòng vèo, Mulder không dám cho xe chạy nhanh. Vậy mà thỉnh thoảng xe vẫn chồm lên như con Kangourou nhảy từ mô đất này sang mô đất khác.
Ngồi trên ghế hành khách, Jeremy luôn quan sát những cử chỉ của Mulder với vẻ nghi hoặc.
Mulder thốt nghĩ đến thân hình biến dạng khủng khiếp của người lái xe tải. Anh ta cũng bị lây nhiễm trong lúc ngồi ở tay lái trong cùng một hoàn cảnh như anh. Như vậy phải chăng là căn bệnh đã lan truyền bởi không khí? Và rồi anh cũng sẽ khuỵu xuông?
Da của Jeremy gợn sóng từng chặp.
- Mulder, tôi đoán được ý nghĩ của anh. Anh sẽ không bị rủi ro gì cả nếu anh không đụng vào tôi.
Chiếc xe hơi nghiêng khi đi vào một con đường vòng. Jereymy ngồi nín lặng. Hắn chỉ muốn tìm ra Scully và đứa bé. Còn Mulder thì có ý định kéo dài thời gian càng lâu càng tốt.
- Hăm dọa cảnh sát liên bang với vũ khí là một tội nặng, ông có biết không? Mulder hỏi hắn. Rồi ông sẽ bị trừng phạt đấy!
- Trừng phạt cái gì? Dorman cười khẩy. Cơ thể tôi đang tự phá hủy. Nếu tôi không mau chóng tìm thấy Jody, tôi sẽ chết. Nhà nước có thể sẽ cử những nhân viên trang bị một cái xô và một cái chổi để thu nhặt những gì còn lại ở nơi tôi. Tôi tự hỏi làm sao người ta nhốt tôi vào tù một khi tôi sẽ chỉ còn là một đống thịt bầy nhầy.
Chiếc xe vẫn lao đi trên con đường đất bụi mù. Dorman bất chợt hỏi:
- Tại sao ông tham dự vào âm mưu ấy? Ông đã thiêu hủy DyMar, giết Kennessy. Bây giờ ông lại săn đuổi tôi và cố sức tìm ra đứa bé.
Mulder lắc đầu ngao ngán.
- Như tôi đã nói với ông, ông đã lầm người rồi. Tôi không phải là một kẻ đồng mưu. Tôi chỉ điều tra về cái chết của người gác dan của DyMar. Nạn nhân đã bị hành hạ bởi một dạng ung thư gợi cho người ta nghĩ tới bệnh dịch.
Mulder xoáy một cái nhìn vào Dorman và tiếp lời:
- Có phải ông đã giết anh ta không?
- Tôi đã báo thằng ngốc ấy đừng đụng vào tôi. Nhưng mọi người đã chống tôi. Chính phủ muốn thủ tiêu tất cả dấu vết sự khám phá của chúng tôi và loại trừ tất cả những cái máy tí hon… ngoại trừ những cái mà các ông đã tồn trữ ở Lầu Năm góc, có đúng không?
- Tôi xin nhắc lại, tôi không phải là kẻ thù của ông. Nhưng tôi biết một vài người có thể tham dự vào những hoạt động mà ông vừa mô tả.
Bất chợt Dorman kêu thét lên, gập người làm đôi, tay ôm lấy bụng. Qua những chỗ rách trên áo của hắ, Mulder nhìn thấy thân hình hắn quằn quại, như có một con rắn đang rong chơi dưới biểu bì của hắn.
Jeremy kêu lên với sức mạnh của một con thú.
- Không!
Hắn thở mau hơn. Chất lỏng đặc hơn trước chạy ra từ những lỗ chân lông của hắn… Rồi tất cả trở lại bình thường, và hắn bớt căng thẳng được một chút.
Hắn chĩa súng vào Mulder.
- Hãy nhìn thẳng và tiếp tục lại – hắn thầm thì vời một giọng khàn khàn. Chúng ta phải mau chóng tìm cho ra cô bạn của ông. Tôi không biết tôi có thể kiểm soát được cơ thể tôi trong bao lâu nữa.
Mắt hắn long lên bởi cơn sốt hay bởi cơn giận, Mulder không đoán ra được.
Dorman dựa vào thành ghế, tiếp lời:
- Nếu tôi không kiểm soát được, tôi sẽ không ch



- 11 -


ỔNG HÀNH DINH LƯU ĐỘNG – OREGON
Thứ sáu, 18 giờ 10
Adam Lenz và những người của hắn đều là những tay chuyên nghiệp. Với họ, tìm dấu vết của những kẻ chạy trốn cũng dễ dàng như săn đuổi một con vật trên tuyết trắng tinh. Hắn không biết tên những người trong ê-kíp của hắn đã tham gia cuộc hành binh này. Nhưng hắn biết tài năng của họ. Những người ấy thường được sử dụng trong những sứ mạng tương tự.
Hắn bí mật tới Portland bằng máy bay, như một thương gia. Hắn không biết các thành viên khác trong ê-kíp của hắn từ đâu đến, nhưng hắn đã gặp họ ở điểm hẹn số 1, con đường nhỏ ở đó có thi hài một người lái xe đường trường bị một chứng bệnh mà họ quan tâm.
Xe của cơ quan y tế đã đậu ở hiện trường khi hắn tới nơi. Cũng có nhiều xe khác màu đen. Những người đàn ông mặc complet, cravate, đeo kính râm, hoạt động tíu tít.
Một cảnh sát địa phương tên là Jared tiếp xúc với họ. Đi theo Jared là Dominic. Hai người hình như rất lo lắng.
Cửa sau của một chiếc xe khử nhiễm mở ra, và những người đàn ông mặc y phục giống như các phi hành gia không gian bước xuống, mang những dụng cụ diệt trùng và những tấm vải nhựa. Một người đàn ông đi theo họ về phía chiếc xe tải chở gỗ. Anh ta cầm một khẩu súng phun lửa.
- Chuyện gì đã xảy ra ở đây? Jared tiến lại phía Adam, hỏi.
Người này không thèm xuất trình huy hiệu của mình, điềm đạm nói:
- Chúng tôi thuộc ê-kíp khử nhiễm. Chúng tôi xin cám ơn các bạn về những điều mà các bạn sẽ giúp chúng tôi.
Hắn thận trọng lùi lại trong khi những người mặc y phục phi hành gia không gian mở ngăn lái của chiếc xe chở gỗ và keo thi hài của người tài xế ra ngoài. Họ tưới vào xác chết nhiều sản phẩm khác nhau rồi bọc nó vào trong một tấm vải nhựa đặc biệt.
Jared hốt hoảng kêu lên:
- Hê, chờ một chút, các ông không thể…
Adam chặn hắn lại bằng một cử chỉ.
- Chúng tôi cần phải bảo vệ an ninh quốc gia. Anh hoặc người đi theo anh, đã sờ hoặc tới gần cái xác này?
- Không, nhưng một nhân viên F.B.I. đã tới đây và mở cabin. Ông ta tên là Mulder. Một người trong ê-kíp của ông?
Adam không trả lời. Jared nói tiếp:
- Ông ta đã trưng dụng chiếc pick-up của anh chàng Dominic này và bảo rằng đi tìm cô bạn đồng nghiệp.
Adam cúi đầu có vẻ đăm chiêu trong lúc đó người đàn ông cầm súng phun lửa bóp cò. Lửa bắt đầu thiêu hủy chiếc xe.
Một làn sóng hơi nóng ùa về phía họ. Lửa ngày càng bốc lên dữ dội.
- Mọi người lùi lại, Adam hét lên, bình xăng sẽ nổ trong vài giây.
Tất cả ê-kíp lùi về phía những cái xe. Xác chết đã được đặt trong chiếc xe khử nhiễm. Những người mặc bộ đồ phi hành gia cởi bộ y phục bảo vệ và vứt vào lửa.
Chiếc xe 15 tấn nổ tung. Jared và Dominic quì xuống, tay ôm lấy đầu vì sợ bị thương bởi những mảnh kim loại bắn tứ tung.
Adam vẫn bám sát cuộc đối thoại với Jared.
- Anh bảo rằng Mulder đã đi… Nhưng hắn đi đâu?
- Tôi… tôi biết ông ta đã đi đâu.
Hắn chỉ cho Adam biết ngôi nhà của Jeremy ở đâu và đi tới bằng những lối nào. Adam không ghi chép – trong nghề của hắn, cần phải có trí nhớ và không để lại một dấu vết viết tay nào.
Ê-kíp khử nhiễm đã ra đi. Cửa của chiếc xe màu đen sập lại. Dominic chạy lại gần Adam và hỏi:
- Thế còn chiếc pick-up của tôi? Ai sẽ trả lại cho tôi?
- Đừng lo về chiếc pick-up nữa, thưa ông. Chúng tôi sẽ chịu trách nhiệm tất cả.
Adam leo lên xe rồi cho xe chạy về hướng ngôi nhà.
Hóa ra ngôi nhà của Dorman, kẻ đã giúp hắn chuẩn bị tấn công DyMar, lại chỉ cách đây có vài cây số… Adam không bao giờ tưởng tượng được rằng Patricia lại có thể ẩn nấp ở đó, tại nhà của một kẻ đã gây ra cái chết cho chồng bà. Khi tới nơi, những người của hắn tản vào khu rừng thưa. Lần này, họ trang bị lựu đạn và súng bán tự động. Trong nghề của họ, cần phải thích ứng với mọi hoàn cảnh.
Họ chờ đợi. Trong nhà vẫn êm ru. Adam ném một cái nhìn về phía các thuộc hạ. Họ hoàn toàn bất động như những người lính chì. “Tiến lên!” hắn khẽ ra lệnh.
Mọi người thay đổi vị trí, chạy theo hình chữ “chi”. Một người chặn ở cửa sau ngôi nhà. Trong lúc đó, người chỉ huy quan sát mặt đất. Có những dấu chân – dấu giày của đàn ông và đàn bà – cũng như những vết bánh xe. Mulder và Scully đã tới đây, cùng một lúc hay kẻ trước người sau.
Một trong những tên mặc đồ đen phất tay ra hiệu. Người ta đổ xô lại. Hắn đã thấy Patricia nằm chết trên cỏ. Adam hiểu ngay: chứng bệnh ghê gớm ấy cũng có mặt ở đây. Bà ta đã bị lây nhiễm. Bởi cái gì? Càng có nhiều nạn nhân, những rủi ro về bệnh dịch càng lớn. Chiến dịch càn quét trở nên khó khắn. Hắn thở dài, lại thêm một trường hợp mới.
May mắn thay, lần này, họ đã tới trước khi những cái máy tí hon làm hồi sinh một cách nhân tạo một vài bộ phận tự trị của cơ thể, như chúng đã từng làm trong trường hợp người gác dan.
- Thủ tiêu tất cả, lẹ lên!
Ê-kíp tìm những dụng cụ cần thiết. Adam đảo mắt nhìn chung quanh trong giây phút rồi ra lệnh:
- Thiêu hủy hoàn toàn ngôi nhà và cái xác này.
Một người đàn ông mặc bộ đồ đặc biệt đặt thi hài Patricia vào trong một cái túi nhựa lớn. Sau đó, xác người đàn bà bất hạnh được đưa vào trong nhà. Adam quay mặt đi trong lúc ê-kíp tưới xăng vào ngôi nhà. Rồi hắn đi ra chỗ đậu xe, nối máy kiểm soát vào kênh giám sát những điện thoại di động.
Khỏi phải mất công: Mulder hoặc Scully sẽ dẫn họ tới đích.
CON ĐƯỜNG PHỤ – OREGON
Thứ sáu, 18 giờ 17
Jody ngáp dài, duỗi chân ra và ngồi dậy. Nó đã ngủ ngon và cảm thấy thoải mái, dễ chịu.
- Thưa cô, cô là ai? Nó hỏi.
Scully giật mình quay lại. Vador đặt mõm lên đùi đứa bé và trìu mến nhìn cậu chủ.
- Tôi là nhân viên đặc biệt Dana Scully.
Chợt nghĩ ra nó chỉ là một đứa bé, cô nói tiếp:
- Cháu có thể gọi cô là Dana. Cô là cảnh sát liên bang. Cô đã đi tìm cháu khắp nơi để đưa cháu tới nhà thương trước khi bị ung thư nữa.
- Ồ không cần đâu, cô ạ. Jody đáp lại như thể đó là một điều tự nhiên nhất trên đời.
Hơn một giờ qua, Dana quyết định đưa thằng bé đi cứu chữa khẩn cấp. Nàng cho xe chạy thẳng theo con đường trước mặt,không biết làm như thế nào và cũng chẳng biết đi đâu. Nàng sẽ cho bất cứ cái gì để có được Mulder ở bên cạnh. Chiếc máy di động vẫn không vận hành. Không có cách nào để gọi Mulder tới hỗ trợ.
- Tại sao cháu không cần tới nhà thương? Cô hỏi với thái độ dửng dưng. Cô đã xem hồ sơ y tế của cháu. Cháu bị ung thư, một bệnh rất trầm trọng.
Thằng bé nhắm mắt để tập trung, như thể người ta vừa bảo nó đọc bản cửu chương.
- Vâng, ung thư, một bệnh bạch cầu dạng Lymphocy cấp tính, một L.L.A. Ba cháu nói rằng bệnh của cháu có nhiều tên gọi, nhưng tựu chung chỉ là bệnh ung thư máu. Nhưng bây giờ hết rồi. Cháu hầu như đã khỏi hẳn.
- Thế mẹ cháu đâu? Khi chú Jeremy tới, mẹ cháu bảo cháu chạy trốn. Jody hỏi.
- Chú Jeremy? Scully lặp lại, và cố trì hoãn tối đa cái giây phút mà nàng sẽ phải nói ra sự thật. Người đàn ông cháu vừa nói tên thật là gì?
Jody nhún vai.
- Là Jeremy Dorman, chú của cháu mà. Người ta nghĩ rằng ông ấy đã chết cùng với ba cháu trong cuộc hỏa hoạn, nhưng ông ấy vẫn còn sống. Cháu thấy ông ấy bệnh nặng. Ông ấy bảo rất cần máu của cháu.
Đứa bé vuốt ve con chó rồi bất chợt hỏi:
- Ông ấy đã làm hại mẹ cháu, phải không?
- Mẹ cháu đã cố gắng bảo vệ cháu. Nhưng cái ông Dorman ấy bị bệnh – bệnh dễ lây… Cũng may là cháu không bị ông ta đụng vào người.
- Mẹ cháu đã mắc phải bệnh của ông ta?
Dana tiếp tục nhìn con đường trước mặt.
- Phải. Nhưng bà ấy không đau đớn.
- Cháu cho rằng Jeremy cũng có những vi sinh vật ở trong máu, Jody khóc và giải thích. Ông ấy đã ăn cắp tại phòng thí nghiệm của bố cháu, nhưng những vi sinh vật trong người ông ta lại không làm việc như những con của cháu. Chúng phá hủy. Cháu đã thấy chúng làm hại ông ta như thế nào. Ông ấy có những cái bướu và mụn mủ khắp nơi.
- Jeremy đuổi theo cháu là vì những “vi sinh vật” của cháu ư?
Scully nhìn đứa bé trong kính chiếu hậu. Tội nghiệp Jody.
- Cô Dana, nó chợt hỏi, có phải cháu là mối nguy hiểm cho những người chung quanh cháu không? Có phải cháu cũng có thể truyền bệnh không?
Nàng thành thật đáp:
- Cô không nghĩ thế. Cô đã sờ vào cháu nhiều lần, đã sờ vào cả máu của cháu, vậy mà có sao đâu, phải không?
- Đúng thế.
- Hãy kể cho cô nghe những con vật tí hon ấy đã vận hành như thế nào. Ba cháu có cho cháu biết ông ấy chế tạo chúng ra sao không?
- Ba cháu bảo rằng đó là những cảnh sát sinh học bé nhỏ, chúng sẽ săn bắt những tế bào ung thư ở trong người cháu và hạ sát từng cái một. Và chúng “tu sửa” nếu có gì trục trặc.
- Thí dụ như người ta bắn cháu?
- Vâng.
Scully bắt đầu hiểu. Nếu những cái máy tí hon có khả năng nhận dạng, phá hủy và thay thế các tế bào ung thư, chúng sẽ chẳng khó khăn gì để làm lành một vết thương bởi đạn.
Nhưng chữa khỏi bệnh bạch cầu thì lại tốn công hơn. Chúng phải “tu sửa” hàng ngàn những khối u-mini, và nhất là phải tìm ra chúng ở giữa hàng tỉ tế bào tạo nên cơ thể của Jody. Đó là một nhiệm vụ cực kỳ, rất phức tạp và rất lâu dài.
- Cô không đưa cháu đi bệnh viện chứ? Đứa bé lo lắng hỏi. Không nên để cho người ta thấy cháu. Không nên để cho tên cháu xuất hiện. Mẹ cháu đã giải thích cho cháu biết điều đó.
Scully suy nghĩ rất nhanh, cần phải gặp Mulder cho bằng được. Đứa bé và con Vador là những chứng cứ duy nhất của sự hiện hữu của những cái máy tí hon. Chúng là những nguyên mẫu cuối cùng. Những người của bóng tối bắt đầu giám thị các bệnh viện… Không thể tới đó, Scully tự nhủ. Chúng đã phá hủy DyMar và giết Kennessy.
Nàng liếc nhìn đứa bé. Nếu bị bắt, hoặc nó sẽ bị sát hại hoặc nó sẽ bị dẫn tới một trung tâm nghiên cứu khoa học bí mật, ở đó người ta dùng nó như một vật thí nghiệm.
- Đừng lo cháu ạ. Cô sẽ đưa cháu đi trốn.
CON ĐƯỜNG PHỤ – OREGON
Thứ sáu, 18 giờ 24
Màn đêm buông xuống. Trong xe tối thui. Như thế đỡ cho Mulder khỏi nhìn thấy cái thân hình ghê tởm của Jeremy luôn ngồi bên cạnh anh. Hắn thiu thiu ngủ.
Bất chợt, hắn nhìn thấy anten của cái máy điện thoại di động thòi ra ngoài túi quần của Mulder. lập tức hắn tỉnh như sáo sậu.
- Ông có một cái máy xách tay? Hắn kêu lên.
- Vâng, thế thì sao?
- Hãy sử dụng nó ngay, để gọi cô bạn đồng nghiệp của ông. Báo cô ấy tới gặp chúng ta.
Không thể để tên mắc dịch này tới gần Dana hoặc đứa bé. Nhưng ác một nỗi Dorman lại có súng.
- Lấy máy ra và gọi cô ấy ngay, hắn nhấn mạnh.
Không có mạng lưới.
Anh dùng răng răng kéo cái anten ra, nhưng vẫn vô ích.
- Ông coi đấy, Mulder giải thích. Không thể tiếp xúc với Scully. Chúng ta đang ở ngoài vùng.
Dorman rên rỉ. Hắn không đe dọa nữa, mà van nài.
- Cần phải tìm ra họ. Chỉ có ông mới có thể giúp được tôi.
- Tại sao tôi lại giúp ông? Để ông có thể giết Jody và cô bạn tôi, như ông đã giết người gác dan, người lái xe tải, rồi Patricia. Và tôi, có phải ông cũng định thêm tên tôi vào danh sách các nạn nhân của ông?
- Tôi không phải là tên sát nhân. Jeremy gào lên. Nếu tôi có được một vài giọt máu của đứa bé, tôi sẽ có thể khỏi bệnh và không còn lây cho ai nữa.
Mulder cau mày.
- Nhưng tại sao ông lại muốn có một mẫu máu của đứa bé. Tôi không hiểu.
- David Kennessy và tôi đã thực hiện những “test” đầu tiên trên con Labrador. Kết quả đầy hứa hẹn nên ông ta quyết định lấy một mẫu gốc của những vi sinh vật để chích cho con trai ông ta. Thằng bé đã hấp hối, bệnh bạch cầu của nó đã ở giai đoạn chót. Ông ta chẳng mất mát gì. Tôi nhớ lại phản ứng của Patricia khi biết chuyện: bà ấy điên lên vì giận dữ. Nhưng thái độ của Patricia đã thay đổi vào những ngày kế tiếp. Bà ấy đã chứng kiến với chúng tôi, sự khỏi bệnh kỳ diệu của Jody.
- Vậy tại sao đám đông lại biểu tình trước DyMar? Ai đã thiêu hủy phòng thí nghiệm?
- Những kết quả đạt được thật phi thường. Một số người nhận định rằng không nên để cho kỹ thuật ấy tiết lộ cho công chúng. Vi kỹ thuật có thể làm cho một sinh vật gần như bất tử và không bị tổn thương. Họ muốn chỉ riêng mình họ là chủ nhân ông của kỹ thuật ấy. Họ muốn… đóng cửa DyMar và tiếp tục những nghiên cứu trong một trung tâm tối mật.
Mulder nhăn mặt.
- Tôi hiểu. Nhưng tại sao những vi sinh vật lại cứu được Jody trong khi cũng chính chúng nó lại đang giết ông?
- David nghi ngờ tất cả mọi người… ngoại trừ những kẻ thù đích thực của ông ta. Những mẫu gốc được ông ta cất giữ tại một nơi bí mật. Khi người ta tấn công DyMar, tôi đã… tôi đã lấy… cái gì mà tôi tìm thấy.
Dorman cúi đầu một cách thiểu não. Còn Mulder thì khiếp hãi.
- Ông đã chích một mẫu gốc khác với cái được sử dụng cho Jody? Lạy Chúa! Ông muốn nói rằng ông đã dùng cái thứ đã được dùng cho con chó?
- Phải. Tôi đã lấy những vi sinh vật trong mẫu của máu con Vador, chúng chỉ thích ứng với A.D.N. của nó. Tôi không có thì giờ để suy xét. Tất cả nổ tung chung quanh tôi. Người ta cố tình giết tôi. Tôi không hiểu tại sao chúng lại không vận hành đúng đắn…
Mulder lắc đầu, sững sờ. Người ngồi kế bên anh đã mang trong mình những sinh vật tí hon được lập trình cho A.D.N. của chó. Những bộ phận nhân tạo ấy ở trong cơ thể ông ta, đã cố gắng để thích ứng, để cải biến lập trình nguyên lai. Nhưng vô phương. Những vi sinh vật đã bị chệch đường sống như một máy vi tính nhận được những chỉ thị mâu thuẫn và không dung hòa được.
- Theo như tôi hiểu, những cái máy tí hon ấy đã lúng túng khi chúng ngập ngừng giữa hai mẫu A.D.N. Nhưng nếu ông sờ vào người khác thì chúng trở nên điên loạn. Do vậy tất cả những ai bị ông đụng vào đã phải chịu đựng một dạng ung thư khủng khiếp và chết trong vài phút.
- Có lẽ ông có lý, nhà khoa học lẩm bẩm. Tôi không có thì giờ để làm “test” trên các nạn nhân của tôi.
- Nhưng có một điều chắc chắn. Những vi sinh vật trong cơ thể Jody và con chó thì vô hại. Chúng đã đụng người ta mà không gây một hậu quả độc hại nào. Tuy nhiên, tôi vẫn không hiểu tại sao ông lại cần một mẫu máu của Jody.
- Mulder, anh thật là ngốc nghếch. Dorman kêu lên. Máu của thằng bé sẽ cứu tôi vì những vi sinh vật của nó vận hành tốt. Nếu tôi chích chúng, chúng sẽ loại trừ những vi sinh vật ở trong tôi và tu sửa tất cả những tổn hại mà những con đầu tiên đã gây ra trong cơ thể tôi.
Ông ta thở dài trước khi nói tiếp:
- Xin ông làm ơn giúp tôi. Hãy cố thử liên lạc với cô bạn ông.
Mulder cầm máy và quay số gội Scully. Anh ngạc nhiên khi thấy tiếng chuông reo.
- Mulder hả, cám ơn Chúa, mấy tiếng đồng hồ bây giờ mới liên lạc được với anh! Bé Jody đang ở chỗ em. Nó khỏi hẳn bệnh bạch cầu rồi…
- Anh biết, Scully, đó là kết quả của những thử nghiệm vi kỹ thuật của ba nó. Kẻ nhiễm bệnh dịch trong vụ này, không phải là Jody, mà là Jeremy Dorman. Sở dĩ anh biết cũng là vì ông ấy đang ngồi bên cạnh anh!
- Mulder, em đã thấy con Vador cắn nát cổ họng lão ấy. Làm sao lão có thể…
Bất chợt nàng cảm thấy mình ngốc: nếu những vi sinh vật làm lành được vết đạn trên ngực Jody, thì chúng cũng có thể dễ dàng bít được những lỗ thủng trên cổ Jeremy.
Đứa bé nhô người lên, hỏi:
- Cô Dana, chuyện gì vậy? Có phải chú Jeremy đang đuổi theo chúng ta không?
Mulder tiếp tục nói:
- Những vi sinh vật của Kennessy công hiệu phi thường, cho nên có một số người muốn chiếm được chúng.
- Em hiểu. Em đã đoán ra được những chuyển xảy ra ở DyMar. Và cũng chính những kẻ lạ mặt ấy đã đến tịch thu tất cả những chứng cứ ở bệnh viện Portland. Không đời nào em để cho chúng đụng tới một sợi tóc của Jody, hoặc một sợi lông với Vador.
- Dorman không muốn làm hại đứa bé, nhưng ông ta khẩn nài được gặp nó.
- Mulder, anh không sao chứ?
Trong chiếc pick-up, Dorman nhấp nhỏm đứng lên ngồi xuống. Hắn đoạt máy điện thoại của Mulder để liên lạc thẳng với Scully.
- Allo! Scully! Tôi là Jeremy Dorman. Tôi thật ân hận đã bắn Jody, nhưng tôi biết rõ rằng những cái máy tí hon sẽ chữa cho nó khỏi. Tôi không muốn làm hại ai cả. Đứa bé ra sao? Tôi muốn nói với nó. Cô Scully làm ơn đưa máy cho nó. Allo Jody! Chú Jeremy đây.
- Mẹ cháu mất, Jody, nhưng không phải do lỗi tại chú, đó là một tai nạn. Bà ấy cố bảo vệ cháu nên đã nhảy bổ vào chú. Bà ấy đâu có biết một khi đụng vào chú là sẽ chết. Chú van cháu, hãy nghe đây: những vi sinh vật trong cơ thể chú tạo ra nhiều sự cố. Nhưng những vi sinh vật của cháu thì vận hành hoàn hảo và sẽ có thể tu sửa những tổn hại. Vì vậy chú cần có máu của cháu.
Thình lình hắn nghiến răng. Hắn rùng mình và rên rỉ vì đau đớn. Mulder phải giữ tư thế phòng ngừa. Anh sợ rằng trong lúc bị co giật, tay hắn sẽ đụng vào cò súng.
- Jody, cháu còn nhớ không, chúng ta đã từng chơi trò điện tử với nhau, chúng ta là bạn mà…
Người bệnh thốt lên mừng rỡ.
- Jody, cám ơn! Hãy trao máy cho cô Scully. Chú cần nhất trí với cô ấy về cái nơi chúng ta sẽ gặp nhau. Cô Scully, Jody và tôi đã thỏa thuận với nhau. Cô biết tôi là một cái xác chết biết đi, cho nên tôi sẵn sàng tất cả. Tôi có súng, hẳn cô cũng biết. Hãy gặp tôi tại DyMar, nếu không tôi sẽ giết anh bạn của cô.


- 12 -


ỔNG HÀNH DINH LƯU ĐỘNG, OREGON – PHÂN KHU TÂY BẮC
Thứ sáu, 18 giờ 43
Những anten parabol trên nóc xe tải, nhưng được ngụy trang bằng cành lá. Chiếc xe đậu tại một nơi hoang vu. Không có ai rỗi hơi để tới đây vào giờ này. Bên trong xe tải, Adam Lenz quan sát những hoạt động của kỹ thuật viên. Đã 10 phút qua, ê-kíp rình rập, tìm một dấu vết, một giọng nói, trên tất cả các tần số. Cho tới lúc này, họ chưa phát hiện được gì cả, nhưng họ vẫn kiên trì làm việc.
- Vậy thì Mulder ở đâu?
Bất chợt, người phụ trách kỹ thuật đứng dậy:
- Thưa sếp, có truyền tin trên máy di động. Đó là Fox Mulder.
Adam bật dậy và cầm lấy một cái mũ để nghe cuộc đối thoại.
Tốt rồi, hai đứa đã bắt liên lạc được với nhau. Thằng bé và con chó ở với Scully. Đứa bé đã khỏi một vết thương chí tử…
Ngay khi Dorman cúp máy, Adam mở cửa sau xe tải và loan báo cho viên phụ tá số một của hắn:
- Quay lại DyMar, vận tốc tối đa.
Tất cả những thành viên của ê-kíp đã thuộc lòng cái chốn tan hoang ấy. Chính họ đã tấn công DyMar và hỏa thiêu nó.
PHẾ TÍCH DYMAR
Thứ sáu, 20 giờ 45
“Trở lại nơi của tội ác”, Scully thầm nhủ trong lúc dừng xe ở đoạn đường dốc kế cận DyMar. Trên trời, mây che một nửa mặt trăng. Ánh sáng mờ nhạt của nó tạo ra những cái bóng mơ hồ trên mặt đất.
- Ngồi yên trong xe. Cô bảo đứa bé.
Cố xuống xe và đi bộ tới chỗ cái dây xích ngăn lối vào bãi đậu xe của trung tâm. Không có một ai. Dưới đồi, ánh sáng của Portland lấp lánh. Đây là một nơi lý tưởng để người ta giăng bẫy. Scully bước qua dây xích. Cũng trong lúc đó, cô nghe thấy tiếng cánh cửa sập ở đằng sau.
Đó là Jody. Nó không thể chờ đợi lâu hơn. Con chó trung thành nhảy nhót chung quanh Jody như muốn đòi cậu chủ chơi với nó.
- Hãy thận trong! Dana bảo thằng bé.
- Cháu đi với cô!
Mùi gỗ và mùi nhựa cháy phảng phất trong không khí. Những bức tường đổ sụp. Đất lổn nhổn những mảnh vỡ. Tất cả đều ám khói. Những xe ủi xếp hàng ở mé đầu bãi đậu xe giống như quái vật nằm ngủ. Chúng chuẩn bị vào cuộc để làm sạch dấu vết của trung tâm nghiên cứu. Tự nhiên cô có linh cảm có chuyện không hay. Tiếng động cơ trên đường ở phía dưới… những ngọn đèn pha lại gần. “Nấp vào sau lưng cô”, Dana ra lệnh cho thằng bé.
Chiếc pick-up xuất hiện ở đoạn đường dốc. Từ khi làm việc chung với Mulder, Dana chưa bao giờ thấy một cảnh tượng như thế. Mulder mặ áo sơ mi cộc tay, từ trên chiếc xe cũ kỹ bước xuống. Một hình thù động đậy trên ghế của hành khách. Rồi một người đàn ông đứng dậy một cách khó nhọc. Người ta thấy rõ hắn bị bệnh. Trông lão ta – Jeremy – bây giờ còn suy sụp hơn là khi Dana thấy lão lần cuối cùng, lúc bị Vador cắn cổ.
- Khỏe chứ, Mulder? Cô hỏi nhưng mắt vẫn phải canh chừng lão quái.
Jeremy tiến lên với khẩu súng trong tay.
Scully cũng rút ra khẩu súng Sig Sauer 9mm.
- Dorman! Thả Mulder ra!
Người bạn của cô tiến lên vài bước. Jeremy không phản ứng.
Đứa bé nghiêng người để xem chuyện gì xảy ra.
- Jeremy, tại sao ông lại làm vậy? Nó hỏi. Ông cũng dữ dằn như những kẻ đã làm mẹ cháu hoảng sợ!
Lưng Dorman còng xuống. Mặt dúm dó. Hắn chìa tay về đứa bé.
- Chú rất ân hận, Jody. Và tuyệt vọng nữa. Cháu đã thấy những vi sinh vật ấy hành hạ chú như thế nào! Cháu là nguồn hy vọng duy nhất của chú.
- Làm sao tôi có thể giúp ông! Bố tôi đã chết, mẹ tôi đã chết. Tôi chỉ còn lại có con chó!
- Có những kẻ đang truy lùng chúng ta. Dorman vẫn tiến bước, khẽ nói. Chính phủ có âm mưu. Họ muốn loại bỏ tất cả những vết tích của công trình của bố cháu! Họ chỉ muốn giữ những bộ máy tí hon cho riêng họ thôi.
Trong lúc Dorman nói những câu ấy, trong bóng tối những cái bóng xuất hiện chung quanh họ: những người đàn ông mặc y phục đen. Họ nhan nhản khắp nơi, đằng sau các thân cây và những phế tích. Một nhóm khác đang lên dốc, trang bị đèn pin.
- Chúng tôi đã hội đủ chứng cớ rằng ông nói dối, Jeremy! Một người mới tới kêu lên.
Dorman quay lại phía Mulder, giận dữ.
- Anh đã phản bội tôi!
Mulder không trả lời Dorman và bảo người lạ mặt:
- Chúng tôi là cảnh sát liên bang! Còn các ông là ai?
- Chúng tôi tới để đổi phiên. Anh và Scully có thể trở về nhà. Chúng tôi đảm trách vụ này và sẽ tường trình lên thượng cấp.
- Tại sao anh biết tên chúng tôi?
Dana kéo sát đứa bé vào người.
- Chúng tôi sẽ khong giao thằng bé cho bất cứ ai. Cô kêu lên.
- Tôi e rằng các người không có sự lựa chọn nào khác. Tôi cam đoan với các người rằng chúng tôi có tất cả những giấy tờ chính thức cần thiết. Chúng tôi ngưng công tác của các người trong vụ này.
Tên cầm đầu nhìn Jody cười gằn.
- Nè, chú bé, cái ông Dorman này không kể hết các chi tiết cho cháu nghe đâu! Jeremy, tại sao ông lại nói dối cậu bé này? Jody, chính chú Jeremy đã giết bố cháu. Hắn đã bắn bốn viên sát gần vào bố cháu. Chí ít cũng là số vỏ đạn mà chúng tôi tìm thấy…
- Nói láo! Dorman gào lên.
Nhưng người kia phớt tỉnh, nói tiếp:
- Chú bé đáng yêu của tôi, câu chuyện cũng đơn giản thôi. Bố cháu đem một khẩu súng lục vào phòng thí nghiệm. Ông ấy muốn sử dụng con chó để phối kiểm xem bộ máy tí hon có làm nó sống lại được không. Cháu vẫn lắng nghe đấy chứ? Bố cháu đã đưa con Vador vào trong phòng thí nghiệm, và Jeremy đã bắn vào nó! Những vi sinh vật đã chữa khỏi cho con chó.
Hắn mỉm cười với vẻ bề trên trước khi kết luận:
- Đau khổ thay, khi chú Jeremy của cháu bắn vào cha cháu thì ông ấy đã chết. David Kennessy không thể “tự tu sửa” được.
Nhà bác học lắc đầu lia lịa:
- Đồ cặn bã! Dối trá!
Hắn chĩa súng vào Adam Lenz. Nhưng những người mặc y phục đen đông hơn. Họ là những người nhả đạn trước tiên.
PHẾ TÍCH DYMAR
Thứ sáu, 21 giờ 03
Những viên đạn cỡ lớn bắn vào cánh tay Dorman đã tước ngay vũ khí của hắn. Dorman hét lên đau đớn, thân hình hắn quằn quại. Mulder ra lệnh cho những kẻ lạ ngừng bắn. Vô ích. Dorman là cái bia duy nhất của các xạ thủ.
Adam và tổ chức của hắn đã lừa dối. Họ hứa với Jeremy sẽ dành cho hắn một phòng thí nghiệm để hắn có thể theo dõi cuộc nghiên cứu về vi kỹ thuật. Nhưng thay vì lời hứa, họ muốn thanh toán hắn.
Jeremy lĩnh hai viên đạn cùng một lúc: một ở cánh tay, một ở ngực. Hắn nhăn mặt vì đau đớn. Chất Adrenaline được đổ vào trong những tĩnh mạch của hắn và hắn hiểu rằng hắn đã mất sự kiểm soát. Da hắn căng như mặt trống. Những vi sinh vật không còn tìm được những thông tin mà chúng có trong trí nhớ để tái cấu trúc cơ thể của hắn. Lưng hắn còng xuống, những cơ hai đầu phồng lên. Da mặt hắn bây giờ giống như nhựa đang chảy ra. Những người mặc y phục đen tiếp tục trút đạn lên người hắn không chỉ vì họ đã được lệnh nổ súng, mà còn vì khiếp hãi trước cảnh tượng ấy.
Dorman trả đũa lại những kẻ thù của hắn, tập trung vào xạ thủ gần nhất. Những xúc tu mọc ra từ cơ thể hắn có tác dụng như những cánh tay để tóm gọn kẻ thù. Nạn nhân vừa kịp kêu lên một tiếng thì đã bị những xúc tu của Dorman nghiền ra như một mảnh bấc. Một viên đạn trúng vào xương đùi Jeremy. Trước khi mất thăng bằng, những bộ máy tí hon trong người hắn xúm vào “dệt lại” một khớp mới. Chất nhảy phủ đầy trên cơ thể hắn chỉ đòi hỏi sinh sản. Để giết kẻ thù, hắn chỉ cần sờ vào họ. Nhưng hắn sẽ thích thú hơn khi bẻ gãy cổ họ, chọc thủng lồng ngực họ… Hắn đã nổi điên!


- Chương Kết -


HẾ TÍCH DYMAR
Thứ sáu, 21 giờ 38
Thuộc hạ của Lenz đều là những chuyên viên “càn quét” mau lẹ. Súng vẫn nổ đinh tai. Adam rất ngạc nhiên về sức đề kháng của Jeremy. Người hắn găm đầy đạn, nhưng hắn vẫn di động và chiến đấu như một con quỷ dữ. Những tiếng kêu trong đống phế tích rồi một tiếng nổ!
Thấy rằng đã tới lúc thuận tiện, Adam đi tới chiếc xe được dùng làm Tổng hành dinh. Hắn và các thuộc hạ của hắn đã tới trước Scully 20 phút. Họ đã chuẩn bị tất cả và thận trọng không để lộ mục tiêu trước giây phút quyết định. Họ đã sử dụng các chất nổ chứa trong một container của hãng thầu có trách nhiệm san bằng phế tích này. Họ còn dùng cả những sản phẩm đốt cháy trong kho dự trữ của họ. Adam đã hứa với cấp trên là phải “làm sạch” khu vực này.
Giây phút quyết định đã tới.
- Tất cả sẵn sàng rồi chứ? Adam hỏi.
- Thưa sếp, vâng.
Adam nhìn lần cuối những phế tích của DyMar.
Và bấm nút kích nổ.
PHẾ TÍCH CỦA DYMAR
Thứ sáu, 21 giờ 47
Sức mạnh của chất nổ làm đổ sập bức tường bê tông và một phần lớn những cột kèo mà vụ phá hoại lần trước hãy còn nguyên vẹn. Những ngọn lửa cuồn cuộn bốc lên trời. Một tiếng rú kinh hoàng khiến Mulder – đang nấp dưới cái bàn giấy kim loại giật nảy người. Trong đám khói mịt mù, anh nhận thấy một người đàn ông mặc sắc phục đen cố sức chạy ra khỏi cái lò lửa. Quần áo của hắn bốc cháy. Những tiếng nổ vang lên tứ phía, xen lẫn những tiếng kêu và tiếng chó sủa. Con Labrador thình lình nhảy vào bên trong phòng thí nghiệm. Một tiếng nổ hất nó vào một trong những bức tường hiếm hoi còn lại. Bộ lông của con vật có một vài nơi bị bén lửa, nhưng Vador đang tìm kiếm một cái gì đó nên nó không chịu bỏ cuộc.
Nhìn thấy con chó, Mulder gân cổ lên gọi:
- Hê, Vador! Quay trở lại! Mày sẽ bị chết cháy!
Scully cố giữ đứa bé trong vòng tay, nhưng nó vùng vằng và cái áo của nó rách toạc. Thoát khỏi đôi tay bảo vệ của cô, nó cắm cổ chạy vào trong vùng khói lửa.
- Jody, không! Cháu chết mất thôi!
Đứa bé không nghe cô. Nó muốn đi tìm anh bạn bốn chân của nó. Con Vador đã tiến sâu vào phía trong tòa nhà. Jody chạy, chạy miết không cần biết những viên đạn lạc réo chung quanh nó. Nó ứng xử như thế vì nó nghĩ hoàn toàn không thể bị tổn thương nhờ sự bảo vệ của cảnh sát sinh học trong cơ thể nó.
Scully gào tên anh bạn đồng nghiệp. Cô không biết anh ta ở đâu, và cũng chẳng biết anh ta còn sống hay không. Cô nghe thấy Jody gọi con chó:
- Vador mày ở đâu? Lại đây, Vador!
Quên cả thận trọng, Scully đuổi theo đứa bé. Khó lòng tìm thấy nó trong cái địa ngục này: khói và những làn hơi nóng quạt vào mặt, cô lại nghe thấy tiếng đứa bé gào lên: “Vador!”
Sau giây phút tưởng như bất tận, cô nhìn thấy Jody và vẫy tay để lôi kéo sự chú ý của nó.
- Jody! Cần phải ra khỏi đây ngay, tòa nhà sắp sụp đổ!
- Scully!
Giọng nói khản đăc… Chính là Scully. Anh xuất hiện ở cuối gian phòng, áo bốc khói, bước đi không vững. Cô phất tay chỉ cho anh lối ra, nhưng chính ngay lúc ấy bức tường ở gần đó sập xuống. Một bóng dáng quái đản hiện ra trên nền của những ngọn lửa.
- Jody! Thế là chúng ta đã tìm thấy nhau! Jeremy reo lên.
Lão quái trước mặt họ hình như trơ trơ với ngọ lửa bén vào quần áo của lão. Cơ thể biến dạng của lão chảy ra như sáp, và da lão, đôi chỗ bị vôi hóa, giần giật những chuyển động ghê khiếp. Cùng lúc ấy, những vết thương của lão khép lại như có ma thuật.
Những xúc tu thõng xuống, lão chắn ngang lối ra.
Hoảng sợ, đứa bé nhào vào vòng tay của Scully. Cô nhìn thấy những vết xước trên da nó hình như không lên sẹo, trái với vết thương của nó do đạn bắn trước đây. Bộ những vi sinh vật trong người nó bỏ cuộc rồi sao?
Một tiếng gầm chợt vang lên. Một mũi tên đen vọt ra từ vùng lửa khói. Con Vador đã tới cứu cậu chủ. Nó xông tới Dorman. Con vật nóng lòng cứu chủ đã vận hành toàn lực đẩy lão quái về những ngọn lửa đang bốc cao. Nơi đó, sàn có nhiều lỗ thủng và, từ dưới tầng hầm lại bùng lên một lò lửa khác. Dần dần con chó, không còn cảm giác với những ngọn lửa bén vào lông nó, đã đẩy lùi Dorman xa hơn nữa, xa hơn nữa…
Tiếng sủa chiến thắng và tiếng rú khiếp hãi hòa lẫn vào nhau, khi hai đối thủ rớt xuống một trong những kẽ nứt lớn nhất.
Tất cả chấm dứt!
Jody nức nở cố giằng ra khỏi Scully để đuổi theo con Vador. Nhưng lần này cô không cho nó cục cựa. Cô dẫn đứa bé về phía lối ra, về nơi an toàn. Mulder đi theo cô, bước thấp bước cao, ho sù sụ.
Sau đó, toàn bộ khu DyMar sập xuống trong cái mới hỗn độn những cột kèo, bê tông và gạch đá.
Không còn một vết tích nào về DyMar nữa.
Hổn hển, ngơ ngác, ba kẻ sống sót nhìn nhau: họ đã thoát khỏi địa ngục. Họ hít thở không khí tươi mát, trong lành của ban đêm.
BỆNH VIỆN PITIE – PORTLAND, OREGON
Thứ bảy, 12 giờ 16
Scully đã xem xét lại những kết quả ghi trong hồ sơ bệnh án của bé Jody, nhưng cô chẳng hiều gì cả. Cô có trong tay những biều đồ chỉ ra những tham số khác nhau nói về tình trạng sức khỏe của Jody. Không sao hiểu được! Cô xếp tất cả vào trong một hồ sơ và đến gặp Mulder đang đứng gác bên giường bệnh của Jody.
Scully trao tập hồ sơ cho Mulder.
- Em chưa xác định được điều gì khiến em ngạc nhiên nhất: những dấu hiệu chứng tỏ những bộ máy tí hon đã hoàn thành nhiệm vụ hay là sự biến mất của chúng.
Mulder lật nhanh mấy trang.
- Em chờ đợi một cái gì khác?
Scully nhún vai.
- Vâng, anh hãy coi những kết quả phòng thí nghiệm. Không có một chút dấu vết nào của những vi sinh vật trong máu của Jody.
Mulder gãi cằm.
- Làm sao có thể như thế được? Em đã thấy thằng bé bị một viên đạn vào ngực rồi lại hồi sinh.
- Em không biết. Có thể em đã nhầm. Có lẽ viên đạn không trúng vào chỗ phạm và…
- Scully, đừng nói lăng nhăng nữa! Bệnh bạch cầu của thằng bé đã bước sang thời kỳ trầm trọng và bây giờ nó khỏe lại! Những vi sinh vật của David Kennessy đã chữa cho nó khỏi bệnh!
Scully bắt đầu có những nghi vấn sau vụ hỏa hoạn ở DyMar lần thứ hai. Những vết xước trên da Jody do những thủy tinh gây ra đã không lên sẹo ngay… mà mãi sau đó mới lành lặn một cách bình thường. Jody là một đứa trẻ như những đứa trẻ khác. Cô mỉm cười nhìn Jody vừa tỉnh giấc. Nó đáp lại bằng cái nháy mắt.
Vài phút sau nhà ung bướu học tiến vào với một xấp giấy tờ trong tay. Scully và Mulder theo ông ta ra ngoài hành lang.
- Tôi đã có những kết quả – ông ta loan báo. Không hề có dấu vết của bệnh bạch cầu. Tôi đã chọc dò tủy sống của thằng bé.
Người thầy thuốc ngập ngừng rồi tiếp:
- Theo hồ sơ thì bệnh bạch cầu của nó ở trong giai đoạn cuối. Nhưng nó lại hoàn toàn khỏe mạnh. Tôi đã chứng kiến biết bao nhiêu đứa trẻ bệnh hoạn, nhưng thằng bé này là một trường hợp đặc biệt: bệnh bạch cầu của nó đã biến mất. Không phải là thuyên giảm mà hoàn toàn khỏi hẳn.
Scully không bao giờ dám hy vọng một tin vui như thế.
Ông ta suy nghĩ trong giây lát rồi tiếp:
- Như các vị đã biết, những phép lạ đã từng diễn ra. Chúng hiếm có, nhưng chúng hiện hữu… Chứng cớ thật khó mà giải thích được.
Họ quay trở lại căn phòng. Nhà ung bướu học loan báo cho đứa bé:
- Chú bé Kennessy, chú đã khỏi hẳn. Ngoại trừ một vài vết xước trên da và một vài vết bầm, mọi sự đều tốt đẹp.
Scully này người lên:
- Mọi sự tốt đẹp sao được? Đứa bé này đã mất cả cha lẫn mẹ! Nó lại đã từng kế cận với cái chết, người đàn ông mà nó coi như chú đã phản bội nó, chính phủ còn phái các sát thủ tới để loại trừ nó, và con chó của nó đã chết!
Ông đốc tờ nhún vai:
- Tôi không có những thứ thuốc để chữa các loại bệnh ấy, rất lấy làm tiếc.
- Cám ơn, chúng tôi sẽ tiếp xúc với bác sĩ nếu chúng tôi có vấn đề.
Dana mời khéo ông ta ra khỏi cửa. Mulder ngồi xuống phía chân giường Jody.
- Cháu đã nghe thấy chưa? Cháu khỏi bệnh rồi. Những vi sinh vật mà ba cháu phát minh ra đã cứu được cháu. Chúng đã chữa cho cháu khỏi bệnh ung thư cũng như đã làm lành vết thương bởi viên đạn. Nhưng chúng đã biến mất.
Jody có vẻ như coi đó là chuyện hết sức bình thường.
- Ba cháu bảo những cảnh sát sinh học sẽ tiêu tan một khi chúng hoàn thành công việc của chúng. Ba cháu bảo những bộ máy tí xíu ấy đã chữa lành cho cháu từng tế bào một, và chuyện đó mất nhiều thì giờ lắm, nhưng cháu mỗi ngày một khỏe hơn. Thế rồi, cho tới khi nào cháu khỏi bệnh, chúng sẽ biến mất đi hết.
Mulder quay về phía Scully.
- Như vậy bác sĩ Kennessy đã biết được sự nguy hiểm khi sử dụng vi kỹ thuật. Ông ấy đã trang bị cho những vi sinh vật một hệ thống tự hủy.
Scully nắm tay đứa bé.
- Jody, chúng ta sẽ thu xếp để cho mọi người biết rằng cháu sẽ không còn những vi sinh vật ở trong người nữa. Khi hiểu ra sự việc đó, những người trong bóng tối sẽ không còn đuổi theo cháu.
Về Jody, Scully sẽ tìm cho nó một nơi trú ẩn an toàn. Còn Mulder, anh sẽ thu thập các chi tiết để làm báo cáo lên cấp trên.
CỘNG ĐỘNG TỰ TRỊ – MỘT NƠI NÀO ĐÓ THUỘC OREGON
Một tháng sau
Những người sống ở đây thật lạ lùng, Jody thầm nhủ, nhưng ít ra nó cũng cảm thấy được an toàn. Sau những thử thách đã vượt qua, nó có thể đề kháng bất cứ cái gì. Nó đã thấy cái thế giới nhỏ bé của nó sụp đổ dần dần: trước hết người ta cho nó biết nó bị bệnh bạch cầu và nó đã trải qua nhiều tháng phấn đấu chống lại cái bệnh khủng khiếp ấy. Rồi ba nó mất trong cuộc hỏa hoạn tại DyMar. Sau đó, nó lại phải theo mẹ chạy trốn, và cuối cùng là cái chết bi thảm của mẹ nó…
May mắn thay, trong đời nó còn có cô Dana. Cô đã đưa nó tới đây ẩn náu trong vòng tay che chở của các thành viên trong cộng đồng, Jody Kennessy đã trở thành một biểu tượng đem lại phước lành cho họ, vì mới tám tuổi đầu, nó đã là cái đích của những thế lực đen tối nhất của guồng máy, và nó đã tồn tại.
Câu chuyện của đứa bé ấy đã tăng cường sự quyết tâm của cộng đồng nhỏ bé. Từ nay, hơn bao giờ hết, họ dứt kkhoát lánh xa một xã hội mà chính phủ bao gồm những kẻ sát nhân và những phường âm mưu.
Jody đã hoàn toàn khỏi hẳn. Nỗi buồn và nỗi sợ của nó rồi cũng sẽ nguôi ngoai dần. Nó dành nhiều thời gian đi lang thang trong khuôn viên của cộng đồng, đôi khi nó tham gia vào việc trồng rau. Ở đây, người ta đi săn và trồng trọt để tự lực cánh sinh. Có thể nói rằng đó là một bộ tộc xuất hiện từ một thế kỷ khác.
Sương mù trôi nổi trên những hàng cây giống như một dải lụa trắng trong lúc một ngày mới bắt đầu. Trên vùng trời, mây xám nặng nề che phủ vầng thái dương. Jdy vừa đi vừa dò dẫm. Jacob, vị trưởng lão của “bộ tộc” đã cam đoan với nó rằng không còn những bãi mìn nữa. Nhưng dù sao nó vẫn hơi sợ, Jacob bảo rằng cần phải duy trì một không khí hoảng sợ chung quanh trại. Mục đích chính là để ngăn ngừa những kẻ lạ mặt của thế giới bên ngoài.
Jody nghe thấy tiếng chó sủa ở phía xa.
Cộng đồng nuôi nhiều loại chó, nhưng tiếng sủa của con chó này nghe rất quen thuộc. Đứa bé ngước mắt nhìn.
Con vật lại sủa. Jody không nhầm, chính là nó.
- Lại đây, Vador!
Có tiếng sột soạt trong bụi cây, và con Labrador đen xuất hiện. Con vật nhảy lại phía đứa bé, vẫy đuôi tíu tít và gâu gâu mừng rỡ.
- Vador, chính là mày, người bạn thân thương của ta!
Rồi Jody xem xét con Vador.
Con chó khỏe mạnh, chẳng sao cả. Tuy nhiên, Jody đã thấy nó biến mất trong hỏa ngục của DyMar. Khi ngọn lửa được dập tắt, chỉ còn lại những tro than và cột kèo vặn vẹo. Không một thứ gì tồn tại… ngoại trừ Vador.
Jody biết rằng con chó ấy cũng như nó: không giống ai. Nó lại trở thành một đứa trẻ bình thường như những đứa khác, khi những vi sinh vật trong cơ thể nó đã chết hết, sau khi chúng hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng con Labrador không có những thiết bị an toàn như của Jody. Nó nghiễm nhiên là một “supertoutou” – một “siêu khuyển”.
Con vật nhảy cỡn chung quanh Jody, gần như lật ngửa thằng bé ra, liếm vào mặt cậu chủ. Vador không mang cổ dề, không có một chút căn cước nào về nó. Càng tốt! Tất nhiên, Jody sẽ không thể nói cho các thành viên khác trong cộng đồng biết sự thật về con vật. Ngoại trừ cô chú Dana và Mulder, sẽ không có một ai biết về câu chuyện về Vador.
Jody ép sát con Labrador vào ngực, vuốt ve bộ lông đen mượt của nó. Jody luôn tin tưởng người bạn bốn chân ấy. Mẹ nó đã từng bảo nó: con Vador trung thành không bao giờ bỏ rơi nó cả.
- Cục cưng của mẹ, đừng lo ngại, Vador sẽ trở về. Nó luôn trở về với con, con biết rõ nó mà.
Và quả nhiên, nó đã trở về.
HẾT
Trang: [1],2,3,19 [>]
Đến trang:
TRANG CHỦ NHỊP SỐNG
Nếu bạn muốn sở hữu cho mình một bản game điện thoại hot nhất hãy đến với chúng tôi , chúng tôi luôn có những bản game điện thoại mới và hot nhất trên thị trường việt nam hiện nay

Powered by XtGem- 2012
Copyright © 2012, nhipsong.sextgem.com

Game điện thoại ¬ Hình nền HD