biết được lý do nào đã khiến cho nạn nhân lập một tờ di chúc mới, trong khi cái cũ vẫn tồn tại. Bà đã luống tuổi và có thể quên mất sự hiện diện của tờ di chúc trước. Hoặc giả, và điều này có vẻ hợp lý hơn dưới mắt ông Philips, có lẽ bà tưởng rằng tờ di chúc không còn giá trị nữa từ sau cuộc hôn nhân của mình, vì đã được nghe nói về vấn đề này. Phụ nữ thường không được rành lắm về pháp lý. Khoảng một năm về trước, bà đã lập di chúc thuận lợi cho bị cáo. Ông Philips định cho gọi những nhân chứng để chứng minh rằng rốt cuộc chính bị cáo là người đã đem tách cà-phê đến cho mẹ kế vào buổi tối định mệnh ấy. Sau đó anh ta đã đột nhập vào phòng để thủ tiêu tờ di chúc mà vắng nó, anh biết, sẽ khiến cho tờ di chúc thuận lợi cho anh trở nên hợp lệ.
Bị cáo bị bắt giữ sau khi thám tử Japp, một viên cảnh sát rất giỏi, phát hiện ra lọ Strychnin mà viên dược sĩ trong làng đã bán cho người được xem là ông Inglethorp, trước hôm xảy ra vụ án. Việc quyết định xem những sự kiện vừa rồi có tạo nên một bằng chứng luận tội không thể chối cãi được đối với bị cáo hay không là việc của Bồi Thẩm Đoàn.
Và, sau khi tế nhị ám chỉ thật không thể tin được là Bồi Thẩm Đoàn sẽ không quyết định như thế, ông Philips ngồi xuống và lau trán.
Những nhân chứng buộc tội đầu tiên phần lớn đều là những người đã được gọi ra ở buổi thẩm vấn, trước tiên là các bác sĩ.
Ngài Ernest Heavywether, nổi tiếng khắp nước Anh về cách làm cho nhân chứng bị bối rối, chỉ đặt hai câu hỏi thôi.
- Theo như tôi hiểu, bác sĩ Bauerstein ạ, thì Strychnin là một loại độc dược có công hiệu rất nhanh.
- Vâng.
- Và trong trường hợp đặc biệt này ông không thể giải thích được sự chậm trễ?
- Đúng vậy.
- Xin cám ơn.
Ông Mace nhận dạng chiếc lọ mà viên công tố đưa ra đúng như là chiếc lọ ông đã bán cho ông Inglethorp. Bị thúc ép, ông thừa nhận ông chỉ biết mặt ông Inglethorp thôi. Ông chưa bao giờ nói chuyện với ông ấy cả. Nhân chứng không bị hỏi thêm gì nữa.
Alfred Inglethorp, bị gọi ra, đã chối phăng việc mua độc dược. Ông cũng bác bỏ việc đã cãi nhau với vợ. Nhiều nhân chứng đã xác nhận lời khai của ông ta là chính xác.
Sau đó người ta nghe lời khai của những người làm vườn về chuyện tờ di chúc, rồi đến lượt Dorcas được gọi ra.
Một mực trung thành đối với “các cậu chủ” của mình, Dorcas kịch liệt không nhận bà đã nghe thấy giọng của John và kiên quyết tuyên bố, mặc dù điều này trái ngược với sự hiển nhiên, rằng chính ông Inglethorp đã có mặt trong thư phòng. Một nụ cười khá u buồn thoáng hiện trên gương mặt của bị cáo. Anh thừa biết rằng sự can thiệp dũng cảm của Dorcas là vô ích, bởi vì chính luật sư bào chữa cũng không định bác bỏ sự kiện này. Dĩ nhiên là bà Cavendish không thể được gọi ra để làm chứng chống lại chồng mình.
Sau khi đã hỏi vài câu về những vấn đề khác, ông Philips hỏi:
- Vào tháng sáu vừa rồi, bà có nhớ rằng có một bưu kiện được hãng Parkson gửi đến cho ông Laurence Cavendish không?
Dorcas lắc đầu.
- Tôi không nhớ nữa. Có thể là có đấy, nhưng ông Laurence vắng nhà hầu như là suốt tháng sáu.
- Trong trường hợp có một bưu kiện gởi đến cho ông ta trong lúc đi vắng thì người ta sẽ làm gì?
- Người ta sẽ đem để trong phòng của cậu ấy hoặc trả lại người gởi.
- Có phải bà làm nhiệm vụ đó không?
- Không, thưa ông. Tôi chỉ đem nó đặt trên chiếc bàn trong tiền sảnh thôi. Cô Howard mới làm chuyện đó.
Evelyn Howard được gọi ra và sau khi được hỏi về những vấn đề khác, thì vấn đề gói bưu kiện được đặt ra với cô.
- Tôi không nhớ nữa. Có nhiều bưu kiện được gởi đến lắm. Tôi không thể nhớ riêng gói nào được.
- Cô không biết nó có được gởi tiếp đến xứ Galles cho ông Laurence, hoặc bỏ trong phòng ông ta sao?
- Tôi cho rằng nó đã được gởi tiếp đi. Nếu không thì tôi đã nhớ rồi.
- Nếu như một bưu kiện nào gởi cho ông Laurence Cavendish mà sau đó bị biến mất thì cô có nhận thấy sự mất mát đó không?
- Không, tôi nghĩ là không. Tôi sẽ cho là một người nào khác đã nhận lãnh nó.
- Cô Howard ạ, hình như chính cô đã phát hiện ra tờ giấy màu nâu này thì phải?
Ông giơ tờ giấy đầy bụi bặm mà Poirot và tôi đã xem xét trong phòng khách ở Styles.
- Vâng, chính tôi.
- Làm thế nào mà cô lại đi tìm nó chứ?
- Viên thám tử người Bỉ đảm nhận vụ án này đã nhờ tôi tìm hộ.
- Cô đã tìm thấy nó ở đâu?
- Trên đầu… tủ gương.
- Trên đầu tủ của bị cáo, phải không?
- Tôi… tôi chắc thế.
- Chính cô tìm thấy nó ư?
- Vâng.
- Thế thì cô phải biết cô tìm thấy nó ở đâu chứ?
- Vâng. Trên đầu tủ của bị cáo.
- Như thế thì tốt hơn đấy.
Một nhân viên bán hàng ở chỗ Parkson, hiệu quần áo đóng tuồng, xác nhận rằng ngày mười chín tháng sáu họ đã giao một bộ râu đen cho ông L. Cavendish như ông này đã đặt mua. Đơn đặt hàng là một bức thư có kèm theo một tấm ngân phiếu. Không. Họ đã không giữ lại bức thư, vì tất cả các đơn đặt hàng đã được lưu vào sổ. Họ đã gửi bộ râu theo như sự chỉ dẫn, đến cho L. Cavendish Esq., Styles Court.
Ngài Ernest Heavywether nặng nề đứng lên.
- Bức thư từ đâu đến vậy?
- Từ Styles Court.
- Cùng địa chỉ với nơi ông phải gởi bưu kiện ư?
- Vâng.
Heavywether lao đến ông ta như một con thú vồ mồi.
- Làm sao ông biết được?
- Tôi… tôi không hiểu?
- Làm sao ông biết được bức thư được gởi đến từ Styles Court? Ông có để ý đến con dấu của bưu điện không?
- Không… nhưng…
- À! Ông không để ý đến dấu bưu điện sao? Thế mà ông lại khẳng định nó được gởi đến từ Styles. Suy cho cùng thì đó có thể là bất cứ con dấu nào chứ?
- Vâng.
- Nói cho cùng thì bức thư, mặc dù được viết trên giấy có nhãn của Styles Court, nó vẫn có thể được bỏ ở bưu điện bất cứ nơi đâu. Ở xứ Galles chẳng hạn?
Nhân chứng thừa nhận rằng có thể là trường hợp đó và ngài Ernest tỏ vẻ hài lòng.
Elisabeth Wells, người hầu phòng thứ hai ở Styles Court, xác nhận rằng sau khi đã đi nằm, bà chợt nhớ đã cài then cánh cửa ra vào thay vì chỉ khóa bằng chìa khóa như ông Inglethorp đã dặn. Do đó bà đã trở xuống để sửa chữa sai lầm đó. Bà đã nghe thấy một tiếng động nhỏ bên cánh trái và, liếc nhìn dọc theo hành lang, bà trông thấy ông John Cavendish đang gõ cửa phòng bà Inglethorp.
Ngài Ernest đã nhanh chóng lèo lái bà ta theo ý mình và, bằng những câu hỏi dồn dập và không thương tiếc của mình, ông đã dẫn bà ta đi đến chỗ phải tự mâu thuẫn với chính mình. Rồi ông ta ngồi xuống với nụ cười hài lòng.
Sau lời chứng của Annie về vết sáp trên tấm thảm và về việc đã trông thấy bị cáo đem cà-phê vào thư phòng, phiên tòa được hoãn lại đến hôm sau.
* * *
Trên đường trở về nhà, Mary Cavendish cay đắng kêu ca về viên công tố của nhà vua.
- Một con người đáng ghét biết mấy! Ông ta tìm cách giăng bẫy xung quanh anh John đáng thương của tôi. Với sự khôn khéo quý phái, ông ấy đã biến đổi từng sự kiện nhỏ, hòng mang lại cho nó dáng dấp phù hợp với ý muốn của mình.
- Thế thì ngày mai sẽ phải trái ngược lại - tôi nói để an ủi bà.
- Phải - Bà mơ màng đáp.
Rồi bất ngờ bà xuống giọng.
- Ông Hastings này, ông có cho rằng Laurence có thể là thủ phạm không? Ồ! Không đâu! Không thể như thế được!
Chính tôi cũng rất thắc mắc và, ngay khi còn lại một mình với Poirot, tôi hỏi ông ấy mục đích thật sự của ngài Ernest là gì.
- Ồ! - Poirot bảo - Ngài Ernest là một con người rất thông minh.
- Ông có cho rằng ông ta tin Laurence là thủ phạm không?
- Tôi cho rằng ông ta chẳng tin gì cả. Không. Ông ta chỉ tìm cách tạo ra rất nhiều rối ren trong đầu óc của các bồi thẩm, nhằm làm cho họ không làm sao biết được ai trong số h
Trang:
[<] 1,
34,
35,[36],
37,
34 [>]Đến trang:
Nếu bạn muốn sở hữu cho mình một bản
game điện thoại hot nhất hãy đến với chúng tôi , chúng tôi luôn có những bản
game điện thoại mới và hot nhất trên thị trường việt nam hiện nay