Nhưng nào chỉ có 9 đức nêu trong Hệ từ hạ đó mà thôi, còn nhiều đức khác cũng quan trọng, như đức Cương, tự cường trong quẻ Càn.
Càn gồm 6 hào, đều là dương cả, tượng trưng cho trời.
“Sự vận chuyển của trời mạnh, người quân tử (nên theo đạo của trời) mà tự cường mãi không nghỉ” (Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức – quẻ Càn – Đại tượng truyện).
Hào Từ hào 3 quẻ Càn cũng nói: “Người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường” (Quân tử chung nhật càn càn).
Còn nhiều quẻ khác nữa cũng thường nhắc tới đạo cương cường, như:
- Quẻ Mông, Đại tượng truyện giảng: quẻ này ngoại quái là Cấn, núi, nội quái là Khảm, nước suối, vậy là dưới núi có suối phun ra, thế nước mạnh; người quân tử nên mạnh mẽ như dòng suối đó, quả cảm hành động để nuôi cái đức. (Sơn hã xuất tuyền, mông; quân tử dĩ quả hành dục đức).
- Quẻ Hằng, Đại tượng truyện giảng: Quẻ này ngoại quái là Chấn, sấm; nội quái là Tốn, gió (trời đất có lúc biến động như sấm, gió, nhưng đạo trời thì vạn cổ y nhiên), người quân tử nên bắc chước thế mà tự lập, không bao giờ thay đổi ý chí (Lôi phong hằng, quân tử dĩ lập, bất dịch phương).
- Quẻ Nhu, Thoán truyện bảo: cương kiện mà không hãm (nghĩa là thông đạt) thì không khốn cùng. (Cương kiện nhi bất hãm, ký nghĩa bất khốn cùng hĩ).
- Quẻ Đại Hữu, Thoán truyện giảng: Nội quái là Càn, tức ở trong có đức cương kiện, ngoại quái là Li là ở ngoài có đức văn minh; như vậy đức của quẻ Đại Hữu là cương kiện mà văn minh, ứng với trời mà tùy thời thi hành thì rất tốt (kỳ đức cương kiện nhi văn minh, ứng hồ thiên nhi thời hành, thị dĩ nguyên hanh).
- Quẻ Đại Súc, Thoán truyện bảo: cứng mạnh, thành thực, rực rỡ mỗi ngày phải sửa đức cho mới hoài, ở ngôi tôn, nghiêm nghị mà chuộng người hiền, ngăn được sự mạnh, như vậy là bậc đại chính. (Cương kiện, dốc thực, huy quang, nhật tân kỳ đức, cương thương nhi thương hiền, năng chỉ kiện, đại chính dã).
Còn nhiều chỗ khác, không thể dẫn hết được. Dịch học phái cho hào dương tượng trưng người quân tử, mà dương thì cương kiện; vậy đức đầu tiên của người quân tử phải là tự cường bất tức, nhật tân, cương quyết tự trau dồi đạo đức không nghỉ, mỗi ngày thêm một diều mới.
*
Nhưng Dịch có dương thì có âm, có Càn thì có Khôn, cho nên đức nhu cũng được trọng, mà như vậy không phải là mâu thuẫn vì Dịch học chủ trương phải tuỳ thời, phải biết biến đổi, không cố chấp: đàn ông trọng cương, đàn bà trọng nhu, người trên nên cương, người dưới nên nhu, lại có lúc người trên cũng nên nhu mà người dưới cũng nên cương. Vả lài cương quá như hào 6 quẻ Càn thì xấu, nên phải có nhu. Cương là ý nghĩa của quẻ Càn, nhu là ý nghĩa của quẻ Khôn. Sau Càn tiếp ngay tới Khôn.
Dịch cho Khôn có đức nhu thuận, nhờ vậy mà tiếp tục công việc của Càn để nuôi vạn vật, chở được vạn vật. Cho nên bài học của Càn là “quân tử tự cường bất tức”, thì bài học của Khôn là “quân tử dĩ hậu đức tải vật” (người quân tử nhờ đức dầy mà dung chở được vạn vật – Đại tượng truyện quẻ Khôn).
Thoán truyện bảo: “An tĩnh giữ đức trinh (bền vững), hợp với đạo vô cùng của trời đất” (An trinh chi cát, ứng địa vô cương).
- Quẻ Hằng cũng trọng đức nhu: “Hằng nghĩa là lâu dài, cứng ở trên mà mềm ở dười, sấm gió cùng hiện với nhau (vì quẻ Hằng gồm quẻ CHấn ở trên là sấm, quẻ Tốn ở dưới là gió, sấm thì cương, gió thì nhu), nhún nhường mà động, cứng mềm đều ứng nhau” (Hằng, cửu dã. Cương thượng nhi nhu hạ, lôi phong tương dữ, tốn nhi động, cương nhu giai ứng - Thoán truyện).
- Quẻ Tuỳ cũng khuyên phải cương mà cũng phải nhu: “Quẻ Tuỳ: cái cứng đến mà ở dưới cái mềm (vì gồm quẻ Chấn là sấm, cứng, ở dưới quẻ Đoái là chằm, mềm), động mà đẹp lòng (Đoái còn có nghĩa là đẹp lòng)” – (Tùy: cương lai nhi hạ nhu, động nhi duyệt – Thoán truyện).
Tự cường bất tức, cương kiện là chủ trương của Nho. Chúng t anhớ cách KHổng tử dạy học, bắt môn sinh phải tận lực tiến hoài, mỗi ngày mỗi tháng biết thêm được điều mới mà không quên điều cũ, luôn luôn ôn cổ tri tân, “học thì như sợ không kịp, học được điều gì rồi thì như sợ quên mất” (Học như bất cập, do củng thất chi – Luận ngữ THái Bá – bài 17); khiến môn sinh ưu tú nhất của ông là Nhan Hồi phải than thở:
“Thầy – tức Khổng tử – dùng thư tịch mà mở rông tri thức ta, dùng lễ tiết ước thúc hành vi của ta, dù ta muốn thôi cũng không được. Ta tận dụng năng lực mà cơ hồ vẫn thấy có cái gì cao lớn sừng sững ở phía trước, ta muốn leo lên tới cùng mà không sao theo nổi” (Luận ngữ – Tử Hãn bài 10).
Nhu, trái lại là chủ trương của Lão.
Đạo đức kinh chương 36, Lão bảo “Nhu nhược thắng cương cường”; chương 78, ông chứng minh: “Trong thiên hạ không có gì nhu nhược hơn nước, mà phá được cái cương cường thì không gì hơn nó”, như nước chảy hoài mà đá phải mòn.
Chương 76 ông lại nói: “Người ta sinh ra thì mềm yếu mà khi chết thì cứng đơ. Thảo mộc sinh ra thì mềm dịu mà khi chết thì khô cứng. Cho nên cứng mạnh là cùng loài với chết, mềm yếu là cùng loài với sống” (Nhân chi sinh dã nhu nhược, kỳ tử dã khô cảo. Cố kiên cường giả, tử chi đồ; nhu nhược giả, sinh chi đồ).
Hai chủ trương ngược nhau: Khổng hữu vi nên trọng cương cường, Lão vô vi nên thích nhu nhược.
Lão biết rằng “vật cùng tắc phản”, thịnh cực thì suy, đầy rồi thì vơi, cho nên không muốn lên tới cùng, không muốn thịnh, không muốn đầy, không muốn ở trên cao, không muốn mạnh, không muốn cương mà muốn yếu, muốn nhu. Ở thời loạn thì thái độ đó khôn, yên thân.
Dịch học phái cũng nghĩ rằng “vật cùng tắc phản”, cho nên cũng trọng đức nhu; nhưng cũng trọng đức cương, cho rằng phải có cả cương lẫn nhu như trong hai quẻ Hằng và Tùy tôi mới dẫn ở trên.
Hơn nữa, Dịch còn cho rằng kẻ dưới phải thuận tòng người trên, nhưng phải lực bậc đại nhân có tài đức mà tin, mà thuận tòng (Thoán truyện quẻ Tốn) chứ không phải thuận tòng bất kỳ kẻ trên nào, lại nên thuận tòng vừa phải thôi, nếu quá mức thì đáng xấu hổ (như hào 3 quẻ Tốn), nếu thuận tòng tới mức ti hạ, siểm nịnh, mất tư cách con người thì chẳng những xấu mà còn bị hoạ nữa (như hào 6 quẻ Tốn).
Vậy Dịch học phái đã dung hoà được Khổng vả Lão.
*
Dưới đây chúng tôi dẫn thêm hai quẻ nữa để chứng minh thêm tính cách dung hoà đó: quẻ Cấn và quả Bí.
Khổng hữu vi, tất nhiên chủ trương động, ông (và cả Mặc tử nữa) suốt đời bôn ba lo việc thiên hạ, ít ai động hơn ông, nhưng ông không đặt ra vấn đề động tĩnh, có lẽ vì cho nó là tự nhiên quá, khỏi phải bàn. “Theộ giả như tư phù, bất xả trú dạ” (Luận ngữ – Tử Hãn, 16) đạo trời như vậy thì đạo người cũng như vậy.
Lão, trái lại, từ đời sống đến tư tưởng đều chủ tĩnh. Ông cho “tĩnh là chủ của náo động” (tĩnh vi táo quân) –Đạo đức kinh chương 26).
Chương 37, ông bảo: “Không ham muốn để được điềm tĩnh thì thiên hạ sẽ tự yên” (Bất dục dĩ tĩnh, thiên hạ tương tự định). Càng động, càng muốn cứu đời thì thiên hạ càng loạn, cứ yên tĩnh, không ham muốn gì cả thì thiên hạ sẽ trị.
Hoạt động, cứu đời mà làm gì? “Mọi vật trùng trùng (theo luật tự nhiên) sẽ trở về cội rễ của nó. Mà trở về cội rễ, là tĩnh” (Phù vật vân vân, các phục qui kỳ căn. Qui căn viết tĩnh – Chương 16). Chương 45, ông nhắc lại: “Thanh tĩnh mới chính được thiên hạ” (Thanh tĩnh vi thiên hạ chính).
Dịch dĩ nhiên cũng chủ trương động như Khổng; âm dương có động thì mới giao nhau, thay thế nhau, mới có biến. Trong tám quẻ căn bản, quẻ Chấn, quẻ Tốn có nghĩa động. Nhưng quẻ Cấn, quẻ Đoái thì tĩnh. Tĩnh nhất là quẻ Cấn; ta vẫn nói trơ trơ như núi. Cấn có nghĩa là núi, là rừng, là tĩnh, là trọng hậu nữa.
Thoán truyện quẻ Cấn giảng” hễ tĩnh thì con người không bị tình dục chi phối, không làm điều ác, không nghĩ tới mình (bất hoạch kỳ thân) mà cũng quên cả người khác, tức là không phân biệt mình và người, như vậy thì không có lỗi. Ý đó giống ý của Lão.
Nhưng Thoán truyện lại nói thêm: “Lúc đáng ngừng thì ngừng, đáng đi thì đi, động tĩnh đều hợp thời, thì đạo đó (đạo ngưng) mới sáng sủa” (Thời chỉ tắc chỉ, thời hành tắc hành, động tĩnh bất thất kỳ thời, kỳ đạo quang minh).
Đại tượng truyện khuyên người quân tử chỉ nên ngừng ở chỗ làm trọn bổn phận của mình.
Vậy là Dịch chủ trương động mà cũng trọng tĩnh, nhưng không quá đề cao tĩnh như Lão.
Một vấn đề nữa: Lão chủ trương “qui căn”, trở về gốc, về sự chất phác thời nguyên thủy. Muốn vậy thì phải “tuyệt thánh khí trí”, “tuyệt xảo khí lợi” (dứt thánh, bỏ trí, dứt trí xảo, bỏ lợi), mà “kiến tố bảo phác” (ngoài thì biểu hiện sự mộc mạc, trong thì giữ sự chất phác) – Chương 19. Cái gì người ta gọi là văn minh thì phải bỏ hết – Chương 28, ông nhắc lại: “phục qui ư phác” (trở về chất phác, mộc mạc như gỗ chưa đẽo).
Khổng tử không cực đoan như vậy, trọng văn minh mà cũng trọng chất phác: “Chất phác thắng văn nhã thì là người quê mùa, văn nhã thắng chất phác thì là người chép sử (giữ việc văn thư); văn và chất đều nhau mới là người quân tử” (Chất thắng văn tắc dã; văn thắng chất tắc sử; văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử – Luận ngữ, Ung Dã, 16).
Dịch có vẻ hơi trọng chất (phác) hơn văn (vẻ). Thoán từ quả Bí bảo: “Làm việc gì mà chỉ nhờ ở trang sức thì lợi chỉ bé nhỏ thôi” (Bí: hanh, tiểu lợi).
Thoán truyện bàn thêm: cái văn vẻ tự nhiên (thiên văn) thì tốt, còn cái văn vẻ nhân tạo (nhân văn) thì nên hạn chế.
Đại tượng truyện cũng khuyên: việc chính trị nhỏ thì dùng trang sức được, còn việc quan trọng (...) thì đừng nên tô điểm thêm.
Hào 5 dặn thêm: trang sức mà tằn tiện thì bị chê cười, nhưng như vậy còn hơn là xa hoa, mà biết trọng cái gốc là sự chất phác, cho nên rốt cuộc vẫn được tốt lành, có hạnh phúc cho dân (Tiểu tượng truyện).
Hào 6, ý nghĩa còn rõ hơn: lấy sự tố phác như màu trắng (không màu mè gì cả) làm trang sức thì không có lỗi (Bạch bí, vô cữu).
Vậy, Dịch tuy cũng cho có trang sức mới là văn minh như Khổng, nhưng vẫn trọng chất hơn văn, lấy chất làm thể, lấy văn làm dụng; tóm lại hơi chịu ảnh hưởng của Lão.
*
Trong 64 quẻ, gần như không quẻ nào không khuyên ta một đức này hay đức khác (những quẻ Trung phu, Di, Gia nhân, Tỉ, Tụy, Đại hữu... trong các mục Việc hằng ngày, Việc trị dân ở trên đều chứa ít nhiều lời khuyên về đạo làm người cả), liệt kê ra thì cực phiền toái, mà tổng hợp thì rất đơn giản, chỉ gồm trong 2 chữ Trung Chính như Trương Kì Quân đã nói: “Đạo lý trong thiên hạ (theo Dịch) chỉ là khiến cho việc không trung trở về chỗ trung, việc không chính trở về chỗ chính”. Trung chính là quan niệm căn bản của Dịch: muốn đoán tính cách cát hung của một hào, Dịch xét trước hết xem hào đó có chính, trung không, có được ứng viện không, và háo ứng viện nó có chính trung hay không.
Chính.
Chính không phải chỉ có nghĩa là ngay thẳng, mà còn có nghĩa là hợp chính nghĩa, hợp đạo.
Phần Kinh ít dùng chữ chính mà thường dùng chữ trinh. Trinh là chính và bền, như trong Thoán từ các quẻ Càn, Khôn, Đại Tráng, Hằng... hoặc trong các hào 1, 3, 5 quẻ Hằng, các hào 2, 3, 4 quẻ Đại Tráng.
Nhưng trong phần Truyện (Thoán truyện, Tượng truyện) thường dùng chữ chính để thay chữ trinh. Như Thoán truyện quả Đại Tráng bảo chính đại là tình của trời đất (Chính đại nhi thiên địa chi tình khả kiến dã).
Quẻ Lí khuyên ta ở đời phải giữ tính trong trắng và đường chính (hào 1 và 2).
Quẻ Phục bảo phải trở về đạo (phản phục kỳ đạo), tức trở về diều thiện (hào 5), nếu không thì sẽ bị tai vạ (hào 6). Như vậy là sửa đổi để trở về đường chính.
Quẻ Vô Vọng có nghĩa là không càn bậy, hợp với chính đạo; cứ thấy việc chính đáng thì làm, không tính toán cái lợi trước rồi mới làm (hào 2); và nếu chẳng may có gặp tai nạn thì cứ thản nhiên, rồi tai nạn sẽ qua khỏi (hào 5).
Tôi chỉ dẫn mấy thì dụ trên (còn rất nhiều nữa) để đọc giả thấy quan niệm về chính trong Dịch. Có thể coi nó là đạo của người quân tử. Người Trung Hoa có từ ngữ “chính nhân quân tử” là nghĩa vậy.
Trung.
Nhưng Dịch cho rằng chính không qúi bằng Trung, vì hễ trung thì cũng là chính, mà chính chưa chắc đã trung (trung là không thiên lệch).
Như hào 2 quẻ Đại tráng. Nó là hào dương ở vị âm (chẵn: 2) tức bất chính (dương ở vị dương, âm ở vị âm mới là chính); nhưng nó ở giữa nội quái, thế là đắc trung, mà trung thì không bao giờ bất chính, cho nên Hào từ khen là tốt.
Hào 2 quẻ Hằng cũng vậy: cũng là dương ở vị âm, chỉ nhờ đắc trung mà không phải hối hận.
Nên coi thêm hào 2 (dương) quẻ Tốn, và hào 2 (dương) quẻ Vị Tế.
Phan Bội Châu (Chu Dịch I – trang 233) cho rằng người Trung Hoa đặt chữ chính trước chữ trung vì quí trung hơn chính, trung bao gồm được chính, chứ chính không bao gồm được trung.
Theo Phùng Hữu Lan thì Huệ Đống đếm trong Thoán truyện đươc 35 quẻ và trong Tượng truyện được 36 quẻ nói về đức trung, nghĩa là số quẻ chiếm già nửa Kinh Dịch. Khi thì gọi là trung chính hay chính trung, đại trung; khi thì gọi là trung đạo, trung hành, hành trung, cương trung, nhu trung...
Trung là tư tưởng của Khổng phái, Lão không hề nói tới.
Luận ngữ đầu thiên Nghiêu viết chép:
“(Khi nhường ngôi cho ông Thuấn) vua Nghiêu bảo: “Hỡi ông Thuấn, mệnh trời tuần hoàn, nay ngôi vua về ông, ông nên thành thực giữ đạo trung – (doãn chấp kỳ trung) – Nếu dân trong bốn bể khốn cùng thì lộc trời (ban cho ông) sẽ mất hẳn đấy”. Về sau, vua Thuấn lại truyền những lời đó cho ông Vũ”. Không biết đoạn đó có thực là lời của Khổng tử, và có đúng không. Nếu đúng thì “trung” là tư tưởng truyền lại từ Nghiêu, Thuấn.
Điều chắc chắn là Khổng tử rất trọng đức trung.
Thiên Ung da,õ bài 27 ông bảo: “Trung dung là đức cực đẹp” (Trung dung chi vi đức, kí chi hĩ hồ!).
Ông chê sự thái quá và sự bất cập, như trong bài 15 thiên Tiên Tiến, ông cho Tử Trương là thái quá cũng như bất cập (quá do bất cập dã), đều xấu cả.
Trong bài 21 thiên Tử Lộ, ông lại bảo: “Không được hạng người trung chính để truyền đạo cho (hoặc để giao thiệp) thì tìm hạng người cuồng phóng hoặc cẩn hậu giữ tiết tháo vậy. Người cuồng phóng có tinh thần tiến thủ, người cẩn hậu giữ tiết tháo thì không chịu làm điều xấu”. (Bất đắc trung hành nhi dữ chi, tất dã cuồng quyến hồ! Cuồng giả tiến thủ, quyển giả hữu sở bất vi dã).
Cuồng là hạng thái quá, quyến là hạng bất cập.
Theo Tử Tư, cháu nội ông, thì ông còn nói: “Người quân tử giữ đạo trung dung, kẻ tiểu nhân làm trái đạo trung dung. Cái trung dung của người quân tử là đã có đức của người quân tử mà còn biết tùy thời cho hợp lẽ trung” (Quân tử chi trung dung dã, quân tử nhi thời trung) – Trung dung chương 2).
Tử Tư trong cuốn Trung Dung đem tư tưởng đó của Khổng, diễn rộng cho có tính cách siêu hình, cho trung là cái gốc lớn của thiên hạ, hễ trung hoà rất mực thì trời dất được yên vị, muôn vật được phát triển, sung sướng.
Quan niệm “trung” trong Dịch gần với quan niệm trong Trung Dung hơn là với quan niệm trong Luận ngữ. Luận ngữ chỉ đúng về phương diện tu thân, hoạc đạo, về phương diện thị phi mà coi trọng đức trung, cho thái quá và bất cập đều xấu như nhau.
Dịch theo luật âm dương trong thiên nhiên, thấy cái gì thái quá thì gây phản ứng, nên khuyên phải trung, phải quân bình, để tránh phản ứng, tránh hoạ.
Trung tức là có chừng mực. “Trời đất có chừng mực nên mới thành bốn mùa” (Thoán truyện quẻ Tiết) mà vạn vật mới phát triển được. Chang72 mực cũng là luật quân bình, nắng không nắng quá, mưa không mưa quá; nắng mưa, ấm lạnh phải thay nhau để điều hoà khí hậu. Cái gì thịnh quá thì phải suy, suy quá thì sẽ thịnh. Khổng, Lão, Dịch học phái đều thấy như vậy, nhưng Lão cực đoan, không muốn thịnh, không muốn tiến, chỉ muốn ở dưới thấp, muốn yếu “thủ thư” (giữ phận con mái), thủ nhục (chịu nhục, kém người); còn Dịch và Khổng muốn tiến, muốn thịnh, muốn mạnh, nhưng tới một mức nào thôi. Lão trọng âm, vô vi; Dịch trọng dương, hữu vi nhưng hữu vi vừa phải, tránh cực đoan.
Cho nên hầu hết các quẻ tốt trong Dịch, hào cuối cùng đều xấu: lúc đó đã thịnh cực rồi, bắt đầu suy.
Như quẻ Càn mà Dịch cho là quẻ rất tốt, có đủ các đức nguyên, hanh, lợi trinh, mà hào 6 có điều ăn năn, “vì rồng lên cao quá”, không xuống được nữa; và gặp hào đó thì không nên hoạt động gì nữa mà sớm rút lui đi để khỏi phải hối hận.
Hào 6 quẻ Thái cũng vậy. Tới cuối thời thông thuận rồi, sắp sau thời bĩ, bế tắc nên Hào từ khuyên: đừng hành động nữa mà sẽ thất bại xấu hổ.
Nhưng quẻ Bĩ thì hào cuối lại tốt: “trướng còn bĩ, sau thì mừng” vì bĩ cực thì thái lai. (Những quẻ xấu khác cũng vậy, đa số hảo cuối đều như các quẻ Bác, Độn, Khuê, Kiển, Hoán...).
Quẻ Thăng cũng là một quẻ tốt, vì là thời tiến lên; hào cuối cùng, Hào từ cho là xấu, vì quá tham, cứ muốn tiến hoài, và khuyên phải sửa đức cho hợp đạo chính thì mới có lợi.
Như trên tôi đã nói, Dịch cho cương cường là một đức tốt, nhưng quá cương thì xấu. Chẳng hạn quẻ Dại quá có tới 4 hào dương ở giữa và chỉ có hai hào âm trên và dưới. Đại quá có nghĩa là lớn quá. Hào từ ghét những hào quá cương (hào 3 và hào 5), còn hào quá nhu như hào 6 (thể và vị đều nhu) thì tuy không có lỗi nhưng cũng cho là xấu. Hào 1 thể nhu mà vị cương; hào 2 và 4 thể cương mà vị nhu, nghĩa là vừa cương vừa nhu thì tốt hoặc không có lỗi.
Vậy Hào từ trọng đức trung (vừa cương vừa nhu) hơn cả. Ngay như đức biết tiết chế, một đức hợp với đạo trời, mà quẻ Tiết, hào 6 cũng bị chê là hung vì tiết chế tới mức quá đáng, khiến người ta cực khổ, không ai chịu được lâu mà sẽ oán.
Lòng thành tín vẫn là tốt, cần thiết trong sự giao thiệp với mọi người, trong việc trị dân, nhưng cũng phải đừng thái quá tới nỗi không biết biến thông, như hào 6 quẻ Trung phu; mà nên có đức trung như hào 2. Hào này là dương, có đức tin, mà ở giữa nội quái, là đắc trung; hai hào cảm ứng, tương đắc với nhau như hạc mẹ gáy, hạc con hoạ lại, rất tốt.
Cả trong quẻ Sư nói về việc xuất quân mà cũng có hai hào khuyên phải giữ đức trung:
- Hào 2, ở trong quân, (vị tướng chỉ huy) có đức trung thì tốt, không tội lỗi. Hào này dương cương mà đắc trung, ở giũa nội quái.
- Hào 5, âm, ở vị chí tôn, tượng ông vua ôn nhu, không gây chiến mà thuận đạo trung (vì ở giữa ngoại quái), chỉ vì quân địch lấn cõi mà phải đánh đuổi đi, nên không có lỗi.
Đạo trời “Khuy doanh nhi ích khiêm”, cái gì đầy thì làm cho khuyết đi, cái gì thấp kém thì bù đắp cho (Thoán truyện quẻ Khiêm), cũng chỉ là để cho vạn vật được cân xứng, quân bình, nghĩa là đắc trung.
Tuy nhiên trung không có nghĩa là lưng chừng như nhiều người hiểu lầm.
Nếu là lưng chừng thì đã không có hào 5 quẻ Càn. Quả này kể những bước đường đời của bậc đại nhân có tài đức muốn lập sự nghiệp lớn để giúp đời. Mới đầu như con rồng còn ẩn (hào 1), rồi tài đức mỗi ngày mỗi cao, đã có người biết tới (hào 2), nhưng vẫn chưa gặp thời, còn phải thận trọng (hào 3), rồi tới lúc có thể tiến được (hào 4), sau cùng thành công ở hào 5. Như vậy đâu phải là lưng chừng, mà trái lại thận trọng tiến tùy thời mà hành động cho tới khi đạt được mục đích. Nếu lưng chừng thì đã ngưng ở hào 3 hay 4 rồi mà thất bại.
Trung cũng như nghĩa là nhu nhược, nếu nhu nhược thì ông vua trong hào 5 quẻ Sư đã không dám đánh đuổi quân địch lấn cõi mình, đã không giao quyền cho vị tướng lão thành trong hào 2.
Trung trong quẻ Càn chỉ có nghĩa là lên cao tới cùng thì ngưng lại, trong quẻ Sư chỉ có nghĩa là không hiếu chiến mà biết tự vệ.
Trung, như Văn ngôn truyện nói, là biết lúc nào nên tiến, lúc nào nên lui, biết vận trời (hoàn cảnh) lúc nào còn, lúc nào mất mà xử sự cho hợp thời nhưng vẫn giữ được chính đạo (Tri tiến thoái tồn vong, như bất thất kì chính), nghĩa là biết tùy trời cho hợp đạo. Như vậy là trúng tiết độ; trúng tiết, sách Trung Dung gọi là hoà.
Theo Mạnh tử và Tử Tư thì Khổng tử chấp trung mà biết tùy thời. Mạnh tử tôn Khổng là “Thánh chi thời” (bậc thánh về đức tùy thời hành động); còn Tử Tư thì cho câu “quân tử nhi thời trung” là của Khổng.
Nếu vậy thì Dịch học phái đã chịu ảnh hưởng của Khổng phái mà tiếp tục phát huy thuyết “thời trung”.
*
Chính, trung lại gồm trong chữ Thời.
Dịch là biến dịch, có biến hoá mới thích hợp (duy biến sở thích – Hệ từ hạ, chương 8), cho nên trọng cái thời. Vì biến đến cực thì trở lại, cho nên trọng đức trung. Trung với thời, do đó mà liên quan mật thiết với nhau.
Thời gồm trung, vì phải hợp thời mới gọi là trung. Ở cảnh giàu sang mà sống bủn xỉn, ở cảnh nghèo hèn mà sống xa hoa, thì không hợp thời, không phải là trung.
Thời gồm chính nữa vì chính mà không hợp thời thì cũng xấu. Cương cường là đạo người quân tử, mà ở cuối quẻ Càn, không hợp thời cho nên có hối hận.
Vậy Dịch là chính trung, mà thực ra chỉ là hợp thời. “Cái nghĩa tùy thời lớn thật”. (Tùy thời chi nghĩa đại hĩ tai! – quẻ Tùy). Và Dịch học phái rất chú trọng đến thời.
Thoán truyện:
- Quẻ Đại hữu bảo:
“Ứng với trời và làm theo thời, nhờ vậy mà được tốt hơn cả” (Ứng hồ thiên nhi thời hành, thị dĩ nguyên hanh).
- Quẻ Tốn:
“Bớt, thêm, đầy, rỗng, cùng với thời mà lưu hành” (Tổn, ích, doanh, hư, dữ thời giai hành).
- Quẻ Cấn:
“Lúc đáng ngừng thì ngừng, lúc đáng đi thì đi. Động tĩnh không thất thời, đạo đó sáng sủa” (Thời chỉ tắc chỉ, thời hành tắc hành. Động tĩnh bất thất kỳ thời, kì quang đạo minh).
Văn ngôn truyện cùng một chủ trương đó:
“Bậc quân tử tiến đức tu nghiệp là muốn cho kịp thời” (Quân tử tiến đức tu nghiệp, dục cập thời dã).
Muốn kịp thời thì phải biến cách, phải thay đổi. Thoán truyện quẻ Cách bảo:
“Thay đổi mà được lòng người tin... thì rất tốt và chính đáng. Thay đổi mà đáng thì ăn năn phải mất. Trời đất thay đổi mà có bốn mùa; vua Thang, vua Vũ đổi mạng (diệt Kiệt, Trụ mà lên làm vua) – thuận với trời mà ứng với người. Cái thời của quẻ Cách lớn thay” (Cách nhi tín chi... đại hanh dĩ chính. Cách nhi đáng, kì hối nãi vong. Thiên địa cách nhi tứ thời hành; Thang, Vũ cách mệnh, thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân. Cách chi thời đại hĩ tai!).
*
Cũng theo Huệ Đống, trong Thoán truyện có 24 quẻ, trong Tượng truyện có 6 quẻ nói tới chữ thời.
Phan Bội Châu bảo trong Thoán truyện có 11 quẻ đề cao chữ thời: quẻ Di, quẻ Đại quá, quẻ Giãi, quẻ Cách chỉ nói tới thời thôi; quẻ Dự, quẻ Độn, quẻ Cấn, quẻ Lữ nói tới Thời mà kiêm với Nghĩa; quẻ Khảm, quẻ Khuê, quẻ Kiến nói tới Thời mà kiêm với Dụng (Chu Dịch – trang 354).
Hai nhà đó chỉ kể những quẻ mà lời Thoán truyện và Tượng truyện khuyên đạo tùy thời; chứ theo Dịch học phái thì 64 quẻ, quẻ nào cũng nói đến thời vì mỗi quẻ là một thời. Chữ “thời” này có nghĩa rộng.
Thái, Bĩ, Kí Tế (xong rồi), Vị Tế (chưa xong), Khốn, Dự (vui vẻ), Nhu ( đợi chờ) v.v... đều là thời cả; mà ngay đến Càn, Khôn, Khảm, Cấn... cũng là thời nữa: Càn là thời của một Đại nhân, có tài đức, thời hành động; Khôn là thời của người dưới, thời nhu thuận, thời văn minh; Khảm là thời gian nguy; Cấn là thời nên tĩnh, nên thận trọng, đề phòng...
*
Hệ từ hạ, chương VII, mở đầu bằng một lời cảm thán: “Đạo Dịch hưng thịnh lên ở thời Trung cổ chăng? (Trung cổ so với thời tác giả Hệ từ, tức thời Văn Vương) Người làm Dịch (tức Văn Vương) có điều ưu tư, lo lắng đấy chăng?” (Dịch chỉ hưng dã, kì ư trung cổ hồ? Tác giả Dịch, kì hữu ưu hoạn hồ?).
Đoạn đó ám chỉ việc Văn Vương bị Trụ giam ở ngục Dữu Lí mà đặt ra Thoán từ cho mỗi quẻ.
Đọc 64 quẻ, chúng ta cảm thấy buồn rầu, ưu tư thật. Xã hội Trung Hoa trong Dịch sao mà đen tối! Cảnh nghịch nhiều hơn cảnh thuận, cảnh suy nhiều hơn cảnh thịnh.
Cảnh vui, thịnh, tôi chỉ thấy có bảy quẻ:
- Dự (vui)
- Thái (thông thuận, trái với bĩ)
- Đại tráng (thời cường thịnh)
- Phong (thời thịnh lớn)
- Đại hữu (thời giàu có)
- Thăng (thời dương lên)
- Tấn (thời nên tiến)
Trong 7 quẻ đó, không có quẻ nào thật tốt,không cảnh nào tác giả Kinh Dịch không tô lên một vệt xám, không nhắc nhở ta: Coi chừng đấy, trong phúc nấp hoạ đấy (quẻ Dự, quẻ Đại Tráng), phải đề phòng trước đi (quả Đại tráng), thái cực thì bĩ theo sau đấy (Thái); trong cảnh giàu có (Đại hữu) mà Dịch lãi khuyên ta nên sống gian nan, đừng khoe của; đương lúc vận lên (Thăng), nên tiến (Tấn), Dịch cảnh cáo ta: tham lam thì chết đấy, tiến vừa vừa thôi; còn trong quẻ Phong là thời thịnh lớn, rất tốt mà không có một hào nào thật tốt, hào nào cũng có lời răn đe: phải cẩn thận, phải thế này thế nọ thì mới tốt.
Và khi công việc vừa mới xong, cũng như vừa mới qua sông (Kí Tế) thì đã tiếp ngay một quẻ bảo việc chưa xong đâu (Vị tế) đừng mong gì được nghỉ ngơi. Thế thì có chán không chứ! Còn cảnh lo buồn, cảnh nghịch, cảnh suy thì sao mà nhiều thế. Bên kia chỉ có một quẻ Thái, thì bên đây có quẻ Bĩ.
Rồi còn tiếp thêm một chuỗi nữa:
- Khảm (nguy)
- Truân (gian truân)
- Kiển (gian nan, hiểm trở)
- rồi tới Khốn (khốn đốn)
Đối với Dự (vui vẻ) thì có:
- Chấn (lo sợ)
Minh Di (giấu tài đức đi, nép đi, không cho ai biết mình)
- Tiểu súc (bị bọn tiểu nhân ngăn cản)
- Bác (phải chống đối với bọn tiểu nhân đương tiến)
Lại còn những cảnh:
- Bị chia lìa: Khuê
- Phải trốn tránh: Dộn
- Sau cùng là phải lưu lạc quê người: Lữ.
Xã hội hác ám đó là xã hội thời Văn Vương (tác giả phần kinh) thời Trụ, thời suy của nhà Ân, mà cũng là xã hội thời Xuân Thu và Chiến Quốc, thời suy của nhà Chu, thời của tác giả phần truyện.
Vì chính các tác giả này trong khi giải thích phần khinh đã gởi vào đó tâm sự của mình, nhân sinh quan của mình.
Ví dụ quẻ Bĩ, Thoán từ của Văn Vương chỉ nói: “Bĩ không phải là đạo người, ví nó không lợi với đoạ chính của quân tử”; chính Đại tương truyện mới khuyên: bĩ là bế tắc tới cùng cực rồi, hành động chỉ vô ích, nên ở ẩn, cốt giữ cái đức và cái thân mình thôi.
Quẻ Đại hữu, Thoán từ khen là rất hanh thông, mà Đại tượng truyện thì căn dặn: “Người quân tử trong quẻ này phải ngăn đón ngay điều dữ khi nó chưa phát hiện, và biểu dương điều tốt khi nó còn mập mờ để thuận mệnh tốt của trời”.
Những lời giảng thêm của người sau đó hầu hết bi quan hơn lời trong Kinh, vì thời Xuân Thu, Chiến quốc của họ loạn thơn trời cuối Ân.
Mỗi quẻ là m ột thời, mà mỗi hào trong quẻ lại là một thời nhỏ trong cái thời chung của quẻ. Để khỏi lẫn lộn, tôi gọi mỗi thời nhỏ của hào là một giai đoạn, một hoàn cảnh trong thời của quẻ.
Như quẻ Càn, hào 1 là giai đoạn ở ẩn (tiềm long) trong thời Càn; hào 2 là giai đoạn bắt đầu xuất hiện (hiện long); hào 3 là giai đoạn thận trọng chờ thời; hào 4 là giai đoạn có thể bay nhảy được; hào 5 là giai đoạn thành công, lên tới tột bực; hào 6 là giai đoạn rút lui.
Sáu giai đoạn trong quẻ Tiệm cũa rát rõ ràng: con chim hồng từ mặt nước mà lên bờ, tới phiến đá, tới đất bằng, tới cành cây, tới gò cao, rồi sau cùng lên tới mây. 6 hào là 6 giai đoạn trong thời Tiệm tiến.
Có thể kể thêm quẻ Nhu (tiếng từ xa chỗ hiểm tới gần chỗ hiểm), quẻ Bác (tiêu màn lần lần từ chân giường lên tới then giường, mặt giường), nhưng trước sau chỉ có độ mươi quẻ như vậy; còn các quẻ kia thì các giai đoạn không theo một thứ tự nào cả; như quẻ Lữ, mỗi hào là một hoàn cảnh áp dụng cho một hạng người tư cách, tính tình khác nhau, không có ý nghĩa trước sau về thời gian.
Mỗi hào tuy có một ý nghĩa riêng nhưng ý nghĩa đó luôn luôn tùy ý nghĩa của quẻ, tức tùy cái thời chung của sáu hào, có vậy mới nhất trí, thành một quẻ được.
- Cũng là thể dương ở vị dương, ngôi chí tôn, mà hào 5 quẻ Càn rất tốt, lập sự nghiệp lớn; còn hào 5 quẻ Truân chỉ hơi tốt thôi, chỉnh đốn việc nhỏ thì được, việc lớn thì xấu, vì hai hào đó ở thời khác nhau, một ở thời Càn, thời của bậc đại nhân, một ở thời Truân, thời gian nan, khó khăn, cho nên tài như nhau mà sự nghiệp khác xa nhau.
- Hào 2 và hào 5 quẻ Càn đều là dương cương cả lại tương ứng, Hào từ khuyên nên tìm nhau mà làm việc; còn hào 2 và hào 5 quẻ Li, cũng đều là dương và tương ứng mà hào từ không khuyên như vậy, bảo 2 nên cô độc giữ vững đường chính, chỉ vì quẻ Càn là thời của một đại nhân (hào 5), có chí lớn giúp đời, mà muốn giúp đời thì cần có người đồng đức, đồng chí (hào 2); còn quẻ Li nói về cách cư xử trong đời của một người thường như chúng ta thì có đại nhân nào kiếm mình (hào 2) mà mình cũng kiếm đại nhân để làm gì, cứ lo giữ vững đường chính là hợp nhất.
- So sánh hào 1 quẻ Kí Tế và hào 1 quẻ Vị Tế, ta càng thấy rõ hơn nữa. Cả hai đều có ba chữ “nhu kì vĩ”: con chồn qua sông để ướt cái đuôi; vậy mà trong quẻ Kí Tế thì cho là “vô cứu”, không có lỗi; còn trong quẻ Vị Tế thì cho là “lặn”, đáng ân hận; vì thời của hai quẻ khác nhau; thời Kí Tế là thời đã qua sông rồi, đã xong việc; thời Vị Tế là thời chưa qua sông, chưa xong việc.
- Hào 4 quẻ Tùy là dương mà ở vị âm, như thế là bất chính, đáng lẽ xấu, nhưng ở thời Tùy (theo) thì làm nên sự nghiệp (gặp ông vua biết dùng tài của mình), và nếu cừ giữ lòng chí thành, sáng suốt, theo đạo lý, thì không có lỗi.
- Quẻ Khốn, hào 2 và hào 5 đều là dương, đắc trung, đáng lẽ tốt mà lại xấu, chỉ vì ở thời khốn đốn.
- Xin đọc giả so sánh thêm cặp 1-4 quẻ Phong với cặp 2-5 quẻ Tụng. Ở quẻ Phong, 1 và 4 ứng nhau, đều dương cả (đồng đức) hợp thành một cặp bạn tốt. Ở quẻ Tụng, 2 và 5 cũng ứng nhau, dũng đều là dương cả, lại thêm đều đắc trung, đáng lẽ cũng thành một cặp bạn rất t